Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2021

 


4. No Demand Bar

Định nghĩa:

No demand bar là một up bar nhà đầu tư tổ chức dùng để test cầu với spread trung bình, giá đóng cửa ở nửa dưới gần mức thấp nhất vol nhỏ hơn vol của phiên giao dịch trước đó.

Đặc điểm:

  • Thường xuất hiện khi cổ phiếu đang có nhịp tăng giá.
  • Thanh bar này tạo cảm giác uptrend đang yếu đi (cầu yếu, vol thấp hơn, cung mạnh hơn) tuy nhiên không phải là đảo chiều xu hướng.
  • Thường các giao dịch là của nhà đầu tư nhỏ tham gia.

5. Shake out bar:

Định nghĩa:

Là một downbar xuất hiện trong quá trình đẩy giá cổ phiếu mà nhà đầu tư tổ chức dùng để giũ bỏ các nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia trước đó trước khi đẩy giá tiếp (gọi là thay máu dòng tiền).

Đặc điểm:

Thường xuất hiện nhiều trong nhịp điều chỉnh đầu tiên của cổ phiếu, xuất hiện ở nhịp điều chỉnh thứ 2 thì thường là những phiên phân phối sớm cổ phiếu , sau giai đoạn này cổ phiếu thương chạy nước rút mạnh mẽ.

Thanh bar này thường đi kèm với test for supply bar (vol thường lớn hơn shake out bar) ở nhịp điều chỉnh và rất dễ nhầm lẫn với upthrust bar nếu không có sự xác nhận sau đó của 1 up bar.

6.Upthrust bar (phân phối – đảo chiều xu hướng)

Định nghĩ :

Là một downbar có spread lớn, vol lớn, giá đóng cửa thấp hoặc gần thấp nhất phiên, xuất hiện trong quá trình phân phối của cổ phiếu. Đây được nhận biết là một bar phân phối có mức ảnh hưởng lớn và sẽ làm đảo chiều xu hướng.

Đặc điểm:

  • Thường xuất hiện nhiều trong quá trình cổ phiếu bước vào giai đoạn phân phối.
  • Mở cửa tăng mạnh để kéo cầu tham gia nhưng vol thấp không mạnh mẽ, sau đó bị bán ngược trong phiên kèm vol lớn đột biến. Đóng cửa ở mức thấp gần hoặc thấp nhất phiên giao dịch.
  • Spread lớn, gia tăng mạnh mẽ về khối lượng so với những phiên giao dịch trước đó.

7.Stopping volume bar

Định nghĩa:

Là một downbar vol lớn, giá đóng cửa cao nhất hoặc cao gần nhất phiên xuất hiện trong quá trình đè giá của cổ phiếu (đôi khi giá đóng cửa chỉ ở nửa trên của cp). Đây được nhận biết là 1 bar gom hàng của nhà đầu tư tổ chức.

Đặc điểm:

  • Thường xuất hiện nhiều trong quá trình cổ phiếu bước vào cuối giai đoạn đè giá.
  • Spread lớn, gia tăng mạnh mẽ về khối lượng so với những phiên giao dịch trước đó.
  • Dấu hiệu này xuất hiện cho thấy đáy đang rất gần (bar này sẽ trùng khớp với test for supply ở giai đoạn giao thoa giữa đè giá và tích lũy) – phiên tát ao.

 


VSA sử dụng nến Bar để phân tích diễn biến giá cổ phiếu (nến bar sẽ được đề cập kỹ hơn ở một phần khác). Hiện tại VSA sử dụng 7 loại nến bar sau:

  • No supply bar
  • Test for supply bar
  • Break out bar
  • No demand bar
  • Shake out bar
  • Upthrust bar
  • Stopping Volume

1. No supply bar

Định nghĩa: Là một downbar biến động với biên độ giá hẹp (spread nhỏ), đóng cửa ở nửa dưới kèm theo khối lượng khớp lệnh thấp thể hiện nguồn cung cạn kiệt.

Đặc điểm: Thưởng xuất hiện ở cuối giai đoạn đè giá (tạo đáy), và trong giai đoạn tích lũy cổ phiếu.

2. Test for supply bar:

Định nghĩa: Là thanh widebar được nhà đầu tư tổ chức dùng để kiểm tra xem lượng cung của cổ phiếu còn nhiều hay không. Xuất hiện sau No supply bar.

Đặc điểm :

  • Thường xuất hiện trong giai đoạn tích lũy, hoặc trong những nhịp điều chỉnh ở uptrend.
  • Nếu ở cuối giai đoạn đè giá – đầu giai đoạn tích lũy là 1 thanh bar có spread lớn (thường mọi người gọi là phiên tát ao) kèm vol lớn. Cổ phiếu sẽ tiếp tục tích lũy cho đến khi vol cạn đi.
  • Nếu ở cuối giai đoạn tích lũy – đầu giai đoạn đẩy giá thì thường là 1 thanh bar có spread vừa phải, giá thấp nhất hoặc thấp hơn giá đóng cửa của phiên trước nhưng giá đóng cửa về gần hoặc cao hơn giá đóng cửa ngày trước đó với vol cạn.
  • Ở trong nhịp chỉnh của uptrend thì cũng thường là 1 thanh bar có spread lớn và kèm vol thấp hơn so với trung bình.

3.Break out bar

Định nghĩa:

Break out hay còn gọi là phiên bùng nổ là một upbar quyết định trong quá trình đẩy giá của MMs – BBs.

Xuất hiện sau khi cổ phiếu test cung thành công – cung đã cạn kiệt => lực cầu mạnh tạo ra Break out bar

Đặc điểm:

Thường giá tăng rất mạnh và vượt lên khỏi vùng cung lớn của cổ phiếu (vùng kháng cự mạnh) nhằm ngăn chặn mọi ý định bán ra của các nhà đầu tư nhỏ lẻ còn nắm giữ, hút được cầu ngoài mạnh hơn tham gia vào.

Thanh bar này đóng vai trò là 1 Upclose bar giá đóng cửa ở mức gần cao nhất phiên kèm khối lượng lớn hơn trung bình từ 1.5 đến 2 lần.

 


Các giai đoạn của 1 chu kỳ giá theo VSA

Kết quả hình ảnh cho chu kỳ làm giá của cổ phiếu

1.Tích lũy: là vùng giá ít biến động với thanh khoản thấp trong một thời gian nhất định để nhà đầu tư tổ chức (Market makers, Big boys v.v..) có thể mua vào lượng lớn nhất giá cổ phiếu với giá thấp nhất.

Dầu hiệu nhận biết :

  • Giá cổ phiếu đi ngang trong một ngưỡng kháng cự và hỗ trợ nhất định.
  • khối lượng giao dịch thấp.
  • Giá trong ngày ít biến động.
  • Khối lượng sẽ thấp ở gần ngưỡng hỗ trợ và tăng lên khi gặp kháng cự.
  • Cổ phiếu đi ngang trong thời gian dài (có thể hàng tháng, hàng quý hoặc hàng. năm)

2.Đẩy giá: là quá trình đưa giá cổ phiếu tăng vượt khỏi vùng tích lũy hướng đến vùng giá mục tiêu của nhà đầu tư tổ chức sau khi đã mua được lượng lớn cổ phiếu ở vùng giá thấp.

Dấu hiệu nhận biết:

  • Xuất hiện sau giai đoạn giá cổ phiếu đi ngang tích lũy.
  • Giá cổ phiếu tăng lên đi kèm khối lượng tăng.
  • Thanh khoản có xu hướng tăng mạnh khi giá tăng và giảm khi đà tăng chứng lại.
  • Thời gian của quá trình đẩy giá tùy vào tình hình thị trường chung.

3.Phân phối: Là quá trình nhà đầu tư tổ chức bán ra phần lớn cổ phiếu họ đang giữ với giá cao nhất để thu lợi nhuận.

Dầu hiệu nhận biết:

  • Tốc độ tăng giá của cổ phiếu chậm dần.
  • Lực cầu không còn xuất hiện nhiều ở vùng giá cao.
  • Bull trap xuất hiện ngày càng nhiều (giá cổ phiếu tiến đến vùng cao mới. nhưng bị áp lực bán ra làm rơi về vùng hỗ trợ gần nhất tạo thành bull trap).
  • Xuất hiện những phiên giao dịch có thanh khoản đột biến lớn.

4. Đè giá: Là giai đoạn xuất hiện sau phân phối, nhà đầu tư tổ chức bán tạo áp lực giảm giá mạnh để có thể tái đầu tư, tạo chu kỳ mới.

Dấu hiệu nhận biết:

  • Biên độ giảm giá lớn, lượng cung luôn rất nhiều trong khi gần như không thấy cầu.
  • Khi giá giảm khối lượng tăng và giá tăng thì khối lượng giảm.

 

Đầu tư thực chiến VSA (phần 1)

Giới thiệu về phương pháp VSA:

Cha đẻ của phương pháp đầu tư VSA (Volume Spread Analysis) là Richard D.Wyckoff (1873 – 1934), một người được cho là đã không ngừng nghiên cứu về thị trường chứng khoán trong cuộc đời ông. Ông là một nhà đầu cơ tiên phong trong phân tích kỹ thuật. Đến năm 1970, VSA được hoàn thiện hơn bởi Tom Williams.

Khi nghiên cứu VSA chúng ta sẽ nhận biết được:

80% giao dịch của thị trường là của nhà đầu tư tổ chức .

20% giao dịch là của nhà đầu tư nhỏ lẻ.

–> nhận định của số đông nhà đầu tư thường sai và cảm xúc của nhà đầu tư nhỏ ít ảnh hưởng tới xu hướng thị trường .

Biến động của thị trường hoàn toàn phụ thuộc theo quy luật cung cầu:

Nếu Cầu > Cung : Thị trường được cho là sẽ uptrend

Nếu Cầu < Cung: Thị trường được cho là sẽ Downtrend

VSA giả thiết là thị trường sẽ chuyển động cơ bản dựa vào dòng tiền thông minh (Smart Money) hay còn gọi là dòng tiền lớn, thường đây là dòng tiền của của tổ chức (Market Makers, Big Boys)

Các cổ phiếu đều sẽ trải qua 1 chu kỳ gồm 4 giai đoạn:

  1. Tích lũy
  2. Đẩy giá
  3. Phân Phối
  4. Đè giá

Chu kỳ cứ tiếp diễn khi hết vòng tròn 4 giai đoạn trên.

4 giai đoạn của chu kỳ giá cổ phiếu

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

 Mô hình mua Wyckoff




 QUÁ TRÌNH PHÂN PHỐI (DISTRIBUTION) : CÁC SỰ KIỆN WYCKOFF

QUÁ TRÌNH PHÂN PHỐI  : CÁC SỰ KIỆN WYCKOFF

🚩PSY—preliminary supply (Nguồn cung sơ bộ ) nơi các nhà tạo lập lớn bắt đầu xả cổ phiếu sau giai đoạn tăng giá rõ ràng. Khối lượng mở rộng và mức chênh lệch giá mở rộng, báo hiệu rằng một sự thay đổi trong xu hướng có thể đang đến gần.
🚩BC—buying climax ( mua cực điểm ), trong đó thường có sự gia tăng rõ rệt về khối lượng và mức chênh lệch giá. Lực mua đạt đến đỉnh điểm, và sự chậm chạp hoặc cấp bách của công chúng đang được lấp đầy bởi những nhà tạo lập chuyên nghiệp ở các mức giá gần đỉnh. BC thường xảy ra trùng với kỳ báo cáo lợi nhuận lớn hoặc tin vui khác vì các nhà tạo lập lớn cần một nguồn Cầu lớn từ công chúng để bán cổ phiếu của họ mà không làm giảm giá cổ phiếu.
🚩AR—automatic reaction (phản ứng tự động). Với việc bên mua mạnh mẽ giảm đáng kể sau khi BC và nguồn Cung tiếp tục tăng mạnh, AR sẽ diễn ra. Mức bán thấp này giúp xác định đường biên dưới của TR phân phối.
🚩ST—secondary test ( kiểm tra thứ cấp ) ở đây giá xem lại khu vực BC để kiểm tra cán cân Cung / Cầu ở các mức giá này. Nếu đỉnh được xác nhận, Cung sẽ lớn hơn Cầu, và khối lượng và mức chênh lệch giá nên giảm khi giá tiếp cận vùng kháng cự của BC. Một ST có thể mang hình thức Upthrust (UT), trong đó giá di chuyển trên mức kháng cự đại diện bởi BC và có thể là các ST khác, sau đó nhanh chóng đảo chiều để đóng dưới mức kháng cự. Sau UT, giá thường kiểm tra đường biên dưới của TR.
🚩SOW—sign of weakness (dấu hiệu của sự suy yếu) có thể quan sát được dịch chuyển giảm giá xuống (hoặc hơi quá khứ) đường biên dưới của TR, thường xảy ra khi mức chênh lệch giá và khối lượng tăng lên. AR và SOW ban đầu cho thấy sự thay đổi của vị trí trong hành động giá của cổ phiếu: Nguồn Cung hiện đang chiếm ưu thế.
🚩LPSY—last point of supply. (Điểm cung hàng cuối cùng) Sau khi thử nghiệm ngưỡng hỗ trợ trên một SOW, một sự phục hồi yếu ớt trên chênh lệc giá hẹp cho thấy thị trường đang gặp khó khăn đáng kể để tiến lên. Không có khả năng phục hồi có thể là do lực Cầu yếu, nguồn Cung đáng kể hoặc cả hai. LPSY đại diện cho sự cạn kiệt nguồn Cầu và những con sóng cuối cùng của quá trình phân phối hàng các nhà tạo lập lớn trước khi giai đoạn giảm giá chính thức bắt đầu.
🚩UTAD—Upthrust after distribution (UpThrust sau quá trình phân phối) UTAD là bản sao ngược lại của Spring và Shakeout trong TR của quá trình tích lũy. Nó xảy ra trong các giai đoạn sau của TR và mang đến một thử nghiệm cuối cùng về nguồn Cầu mới sau khi đột phá lên kháng cự trên của TR. Tương tự như Springs và Shakeouts, UTAD không phải là một yếu tố cấu trúc cần thiết: TR trong quá trình Phân phối Sơ đồ # 1 chứa một UTAD, trong khi TR trong Phân phối Sơ đồ số 2 thì không có.

CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH PHÂN PHỐI 

- Giai đoạn A: Giai đoạn A trong quá trình phân phối TR đánh dấu sự dừng lại của xu hướng tăng trước đó. Tính đến thời điểm này, nguồn Cầu đã chiếm ưu thế và bằng chứng quan trọng đầu tiên về nguồn Cung vào thị trường được cung cấp bởi nguồn cung sơ bộ (PSY) và Mua cực điểm (BC). Những sự kiện này thường được theo sau bởi một phản ứng giá tự động (AR) và tiếp sau đó là một thử nghiệm thứ cấp (ST) của BC, thường là khi giảm khối lượng. Tuy nhiên, xu hướng tăng cũng có thể chấm dứt mà không có hành động giá cực điểm, thay vào đó thể hiện sự cạn kiệt của lực Cầu với sự giảm mức chênh lệch giá và khối lượng, và ít có sự tiến triển hơn trên mỗi đợt tăng trước khi nguồn Cung đáng kể xuất hiện.
Trong giai đoạn phân phối lại ở TR trong một xu hướng giảm lớn hơn, giai đoạn A có thể trông giống như bắt đầu tích lũy tại TR (ví dụ, với hành động giá và khối lượng tại đỉnh theo mức giá giảm). Tuy nhiên, các giai đoạn từ B đến E của giai đoạn phân phối lại TR có thể được phân tích theo cách tương tự với giai đoạn phân phối TR ở đỉnh thị trường.
- Giai đoạn B: Chức năng của giai đoạn B là xây dựng một nguyên nhân để chuẩn bị cho một xu hướng giảm mới. Trong thời gian này, các tổ chức và nhà tạo lập chuyên nghiệp lớn đang xử lý hàng tồn kho lớn của họ và bắt đầu các vị thế bán khống với sự chờ đợi tiếp đó cho giai đoạn giảm giá. Các điểm ở giai đoạn B trong quá trình phân phối tương tự như giai đoạn B trong quá trình tích lũy, ngoại trừ các nhà tạo lập lớn là người bán ròng cổ phiếu khi TR mở ra, với mục tiêu làm cạn kiệt phần lớn nguồn Cầu còn lại càng nhiều càng tốt . Quá trình này để lại manh mối cho thấy cán cân Cung Cầu nghiêng về phía Cung thay vì Cầu. Ví dụ, SOWs thường đi kèm với sự gia tăng đáng kể mức chênh lệch giá và khối lượng trong chiều giảm giá.
- Phase C: Trong quá trình phân phối, giai đoạn C có thể tự tiết lộ thông qua một Upthrust (UT) hoặc UTAD. Như đã nói ở trên, UT là đối xứng của một Spring. Đó là một động thái giá trên kháng cự của TR mà giá nhanh chóng đảo ngược và đóng cửa ở trong TR. Đây là một thử nghiệm về nguồn Cầu còn lại. Nó cũng là một bẫy tăng giá – nó xuất hiện để báo hiệu sự nối lại của xu hướng tăng nhưng thực tế thì đây là một bước đi sai lầm ngoài khuôn mẫu của các nhà giao dịch theo trường phái Breakout . UT hoặc UTAD cho phép lợi nhà tạo lập lớn dễ đánh lừa công chúng về xu hướng trong tương lai và bán thêm cổ phiếu với giá cao cho các nhà đầu tư và nhà đầu tư theo trường phái Breakout trước khi bắt đầu giai đoạn giảm giá. Ngoài ra, một UTAD có thể khiến các nhà giao dịch ngắn hạn ở các vị thế bán khống phải cover lại hàng và từ bỏ cổ phần của họ cho các nhà tạo lập lớn, những người đã thiết kế động thái này.
Các nhà giao dịch tích cực có thể muốn bắt đầu các vị thế bán khống sau khi UT hoặc UTAD. Tỷ lệ (Risk/Reward) rủi ro / thưởng thường khá thuận lợi. Tuy nhiên, “Smart Money” cản trở nhà giao dịch, khởi tạo các vị thế bán khống như vậy với một UT khác, vì vậy thường an toàn hơn nên chờ đến giai đoạn D và LPSY.
Thường thì nguồn Cầu quá yếu trong giai đoạn phân phối ở TR mà giá không đạt đến mức BC hoặc ST ban đầu. Trong trường hợp này, bài kiểm tra của giai đoạn C cho nguồn Cầu có thể được đại diện bởi một UT của tạo đỉnh thấp hơn trong TR.
- Giai đoạn D: Giai đoạn D đến sau các thử nghiệm trong giai đoạn C, cho chúng ta thấy những sự hấp hối cuối cùng của nguồn Cầu. Trong giai đoạn D, dịch chuyển của giá nhẹ nhàng đến hoặc xuyên qua hỗ trợ TR. Bằng chứng cho thấy nguồn Cung rõ ràng là chiếm ưu thế hoặc với sự phá vỡ hỗ trợ rõ ràng hoặc với mức giảm xuống dưới điểm giữa của TR sau khi UT hoặc UTAD. Thường có nhiều đợt phục hồi yếu trong giai đoạn D; các LPSY này đại diện cho các cơ hội tuyệt vời để bắt đầu hoặc thêm vào các vị thế bán khống có lợi nhuận. Bất cứ ai vẫn còn ở một vị thế mua nắm giữ trong giai đoạn D đều gặp rắc rối.
- Giai đoạn E: Giai đoạn E mô tả sự mở rộng của xu hướng giảm ; cổ phiếu rời khỏi TR và nguồn Cung được kiểm soát. Một khi TR hỗ trợ bị phá vỡ trên một tín hiệu SOW lớn, sự cố này thường được kiểm tra với một đợt hồi phục thất bại tại đó hoặc gần hỗ trợ. Điều này cũng thể hiện cơ hội có khả năng bán khống. Các cuộc hồi phục tiếp theo trong quá trình giảm giá thường yếu ớt. Các nhà giao dịch đã thực hiện các vị thế bán khống có thể theo dõi các điểm dừng của họ khi giá giảm. Sau một động thái giảm đáng kể, hành động đỉnh điểm có thể báo hiệu sự khởi đầu của một TR phân phối lại hoặc tích lũy.
KHAI GIẢNG KHÓA HỌC PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHUYÊN SÂU TỔNG HỢP 3 trong 1 cơ bản + nâng cao + phái sinh :
 KHÓA HỌC CẦM TAY CHỈ VIỆC TỚI KHI HỌC VIÊN THÀNH THẠO - HỖ TRỢ MÃI VỀ SAU .
🚩Thời gian học : buổi tối các thứ 2,4,6 lúc 20h-22h

NỘI DUNG HỌC :

PHẦN LÝ THUYẾT

1 . Phân Tích Nến và các bộ Nến đảo chiều ( hiểu rõ hành vi của chúng ).
2. Đường Trung Bình MA - EMA , Bolliger Band , MACD , RSI , MFI , STOCHATIC , ADX , PARABOLIC , FIBONACCI , TREND LINE , ICHIMOCU , HỖ TRỢ KHÁNG CỰ ,....
3. Các mô hình giá gây biến động mạnh : mô hình tam giác , mô hình cốc tay cầm , mô hình 2 đỉnh , 2 đáy , 3 đỉnh ,3 đáy .....
4. Phân Kỳ và Phân Kỳ Chuyên sâu - Kết hợp Phân Kỳ với Ichimocu và các chỉ báo kĩ thuật khác .
5. Mô hình hài hòa HAROMIC - Con bướm , con dơi , con cua ... ABCD báo hiệu sự đảo chiều tiềm năng của xu hướng giá .
7. Phương pháp VSA - Hộp Davas - chiến lược mua bán .

PHẦN THỰC CHIẾN 

1. Phân Tích Nến và các bộ Nến đảo chiều ( hiểu rõ hành vi của chúng ).Các điều kiện tại các bộ nến đảo chiều để xác định chu kỳ, tăng giảm thật hay bull đểu .

2. Cách xác định cổ phiếu tạo đáy .
3. Cách xác định cổ phiếu tạo đỉnh .
4. Cách xác định cổ phiếu BULL Trap tăng đểu .
5. Quy trình chọn mua cổ phiếu theo Phân Tích Kỹ Thuật .
6 . Điều kiện VOLUME tại các kênh xu hướng điểm hỗ trợ - kháng cự .
7. Phương pháp mua cổ phiếu tăng ngay sau T+
8. Phương pháp mua cổ phiếu vượt đỉnh ( cổ phiếu tăng trưởng ) .
9. Chiến Lược Đi Tiền Và Chiến Lược Sử Dụng Margin Đòn bẩy .
10 . Phương pháp bắt đáy cổ phiếu an toàn hiệu quả cao .
11. Phương pháp Cắt lỗ - Chốt lời .
12 . Chiến lược phân bổ vốn , danh mục , thời điểm Mua - Bán . Tâm lý và kỷ luật trong đầu tư CK .


 QUÁ TRÌNH TÍCH LŨY (ACCUMULATION) :CÁC SỰ KIỆN WYCKOFF

1 . PS—preliminary support (hỗ trợ sơ bộ), nơi lượng mua đáng kể bắt đầu cung cấp hỗ trợ rõ rệt sau một động thái giảm kéo dài. Khối lượng gia tăng và mức chênh lệch giá mở rộng, những tín hiệu này cho thấy xu hướng giảm có thể đang tiến dần đến kết thúc
2. SC—selling climax, nơi mà tại đó mức chênh lệch giá rộng và áp lực bán thường cao trào và lực bán mạnh hoặc hoảng sợ của công chúng đang bị hấp thụ bởi các nhà tạo lập lớn hơn hoặc gần đáy. Thường thì giá sẽ đóng cửa tốt ở mức thấp trong một SC, phản ánh việc mua bởi những nhà tạo lập lớn.
3. AR—automatic rally, xảy ra vì áp lực bán mạnh đã giảm đi rất nhiều. Một làn sóng của bên mua dễ dàng đẩy giá lên; điều này được tiếp tục thúc đẩy bên mua mua lại hàng. Đỉnh cao của đợt hồi phục giá này sẽ giúp xác định ranh giới trên của một TR tích lũy ( TR – Trading Range ).
4. ST—secondary test, trong đó giá xem xét lại khu vực của SC để kiểm tra cán cân cung cầu ở các cấp này. Nếu đáy được xác nhận, khối lượng và mức chênh lệch giá sẽ được giảm đáng kể khi thị trường tiếp cận hỗ trợ trong khu vực của SC. Thông thường có nhiều ST sau SC.
Lưu ý : Springs or shakeouts, thường xảy ra trễ trong TR và cho phép những nhà tạo lập chi phối thực hiện kiểm tra về nguồn cung sẵn có trước khi chiến dịch đánh lên mở ra. “Spring” có giá thấp hơn mức thấp của TR và sau đó đảo ngược để đóng trong TR; hành động này cho phép các nhà tạo lập đánh lừa công chúng về hướng xu hướng trong tương lai và để mua thêm cổ phiếu với giá hời. Rung lắc ở phần cuối của một TR tích lũy giống như một “Spring” sinh ra một cách tự nhiên. Rung lắc cũng có thể xảy ra khi tiến trình tăng giá đã bắt đầu, với chuyển động giảm nhanh nhằm rung lắc các nhà giao dịch và nhà đầu tư bán lẻ ở các vị trí mua bán cổ phiếu của họ cho các nhà tạo lập lớn. Tuy nhiên, Spring và Rung lắc không yêu cầu nhiều yếu tố: Tích lũy sơ đồ 1 mô tả Spring, trong khi tích lũy sơ đồ 2 cho thấy một TR mà không có Spring.


5 . Test—Các nhà tạo lập lớn luôn testing for supply trong suốt TR (ví dụ: STs và Springs) và tại các điểm chính trong thời gian tiến triển của giá. Nếu nguồn cung đáng kể xuất hiện trên một thử nghiệm, thị trường thường không sẵn sàng để được đánh lên. Spring thường được theo sau bởi một hoặc nhiều bài Test ; một thử nghiệm thành công (chỉ ra rằng việc tăng giá tiếp diễn theo sau) thường tạo nên mức giá cao hơn mức thấp trên khối lượng thấp hơn.
6 . SOS—Sign of strength, một sự tăng giá lan rộng và với khối lượng tương đối cao hơn. Thường thì một SOS diễn ra sau một Spring, xác nhận giải thích của nhà phân tích về hành động trước đó.
7 . LPS—last point of support, điểm thấp của một phản ứng hoặc pullback sau một SOS. LPS có nghĩa là một hành động giá kéo ngược kiểm tra hỗ trợ đó mà trước đây nó là kháng cự, giảm bớt mức chênh lệch giá và khối lượng.
8 .BU—”back-up”. Thuật ngữ này là viết tắt của một phép ẩn dụ đầy màu sắc được đặt ra bởi Robert Evans, một trong những giảng viên hàng đầu của phương pháp Wyckoff từ những năm 1930 đến thập niên 1960. Evans đã ẩn dụ SOS là “nhảy qua con lạch” của giá kháng cự, và “ngược trở lại con lạch” thể hiện cả lợi nhuận ngắn hạn và là một thử nghiệm thêm nguồn Cung xung quanh vùng kháng cự. BU là một yếu tố cấu trúc chung trước một sự tăng giá đáng kể hơn và có thể có nhiều dạng khác nhau, bao gồm một pullback đơn giản hoặc một TR mới ở mức cao hơn.
CÁC GIAI ĐOẠN TÍCH LŨY 
Giai đoạn A: Giai đoạn A đánh dấu sự dừng lại của xu hướng giảm trước đó. Tính đến thời điểm này, nguồn Cung đã chiếm ưu thế. Sự tiếp cận nguồn Cung cũng yếu dần được minh chứng trong hỗ trợ sơ bộ ( PS ) và đỉnh cao bán ( SC ). Những sự kiện này thường khá rõ ràng trên biểu đồ thanh , nơi mà chênh lệch giá mở rộng và khối lượng lớn mô tả việc chuyển giao một lượng lớn cổ phần từ tay công chúng sang cho các nhà tạo lập chuyên nghiệp. Một khi các áp lực bán thuyên giảm, một đợt hồi phục giá ( AR ), bao gồm nhu cầu của nhà đầu tư tổ chức cũng như là việc bán khống – mua lại hàng, thường là xảy ra sau đó. Một bài test thứ cấp ( ST ) trong khu vực SC sẽ cho thấy lực bán ít hơi so với trước và một chênh lệch giá hẹp và khối lượng giảm, thường là dừng lại hoặc trên mức giá bằng với SC. Nếu ST thấp hơn giá trị SC, có thể dự đoán là có mức đáy mới hoặc củng cố sẽ kéo dài. Các mức đáy của SC và ST và mức cao của AR sẽ đặt ra ranh giới của TR. Các đường ngang có thể được vẽ để tập trung sự chú ý vào hành vì trên thị trường, như trong 2 sơ đồ tích lũy ở trên.
Đôi khi xu hướng giảm có thể kết thúc ít hơn đáng kể, không có giá cao tột đỉnh và khối lượng hành động. Nói chung, tuy nhiên, tốt hơn là nên xem PS, SC, AR và ST, vì chúng không chỉ mang lại toàn cảnh biểu đồ rõ ràng hơn mà còn là dấu hiệu rõ ràng cho thấy các nhà tạo lập lớn đã bắt đầu tích lũy một cách dứt khoát.
Trong một TR tích lũy lại (xảy ra trong một xu hướng tăng dài hạn), các điểm đại diện cho PS, SC và ST không hiển nhiên trong Giai đoạn A. Thay vào đó, trong các trường hợp như vậy, Giai đoạn A trong quá trình tích lũy lại tương tự như trong phân phối (xem bên dưới). Các giai đoạn B – E trong quá trình tích lũy lại TRs tương tự, nhưng thường có thời gian ngắn hơn và biên độ nhỏ hơn so với các giai đoạn trong cơ sở tích lũy chính.
Giai đoạn B: Trong phân tích Wyckoff, giai đoạn B phục vụ chức năng “xây dựng một nguyên nhân” cho một xu thế tăng mới (See Wyckoff Law #2 – “Cause and Effect”). Trong giai đoạn B, các tổ chức và các nhà tạo lập lớn đang tích lũy hàng tồn kho với giá tương đối thấp với sự chờ đợi giai đoạn tăng giá tiếp theo. Quá trình tổ chức tích lũy này có thể mất một thời gian dài (đôi khi một năm hoặc hơn), và liên quan đến việc mua cổ phiếu với giá thấp hơn và kiểm tra sự tiến triển về giá với doanh số bán hàng ngắn hạn. Thường có nhiều ST trong giai đoạn B, cũng như các hành động kiểu như đẩy giá lên ( Up-Thrust ) ở phía trên của TR. Nhìn chung, những nhà tạo lập lớn là người mua ròng cổ phiếu khi TR mở ra, với mục tiêu mua lại phần lớn lượng Cung nổi còn lại khi có thể. Tổ chức bên mua và bên bán thể hiện hành động giá lên xuống đặc trưng của phạm vi giao dịch.
Trong thời kỳ đầu của giai đoạn B, biến động giá có xu hướng rộng, kèm theo khối lượng lớn. Vì các nhà tạo lập hấp thu nguồn Cung, tuy nhiên, khối lượng trên đường quay xuống trong TR có xu hướng giảm đi. Khi điều đó xuất hiện thì nguồn Cung có khả năng đã cạn kiệt, cổ phiếu đã sẵn sàng cho Giai đoạn C.
Giai đoạn C: Giá cổ phiếu trải qua một thử nghiệm ( Testing ) quyết định về nguồn Cung còn lại, cho phép các nhà tạo lập “Smart Money” xác định xem cổ phiếu đã sẵn sàng để được đánh dấu giai đoạn tăng giá hay chưa. Như đã lưu ý ở trên, Spring là một động thái giá dưới mức hỗ trợ của TR được thiết lập trong các giai đoạn A và B, nhanh chóng đảo ngược và di chuyển trở lại TR. Đây là một ví dụ về bẫy giảm giá ( Bear Trap ) vì rơi xuống dưới ngưỡng hỗ trợ sẽ xuất hiện cảnh báo sự tiếp nối trở lại của xu hướng giảm. Trong thực tế, mặc dù, điều này đánh dấu sự khởi đầu của một xu hướng tăng mới, bẫy người bán trễ, hoặc bi quan. Trong phương pháp của Wyckoff, một thử nghiệm thành công về nguồn Cung được đại diện bởi Spring(hoặc Shakeout) mang lại một cơ hội giao dịch khả năng thành công cao. Spring có khối lượng thấp (hoặc một thử nghiệm khối lượng thấp của Shakeout) chỉ ra rằng cổ phiếu có thể sẵn sàng để di chuyển lên, vì vậy đây là thời điểm tốt để bắt đầu ít nhất một vị thế mua một phần.
Sự xuất hiện của một SOS ngay sau Spring hoặc Shakeout xác nhận phân tích. Tuy nhiên, như đã lưu ý trong sơ đồ tích lũy số 2, việc thử nghiệm nguồn Cung có thể xảy ra ở mức giá cao hơn trong TR mà không có Spring hoặc Shakeout ; khi điều này xảy ra, việc xác định giai đoạn C có thể là một thách thức.
Giai đoạn D: Nếu chúng ta phân tích chính xác, những gì cần làm theo là sự thống nhất của nguồn Cầu đối với nguồn Cung. Điều này được chứng minh bằng một mô hình tiến triển (SOSs) về việc mở rộng mức chênh lệch giá và tăng khối lượng, và điểm phản ứng giá (LPSs) trên mức chênh lệch nhỏ hơn và giảm khối lượng. Trong giai đoạn D, giá sẽ di chuyển ít nhất đến đỉnh của TR. LPSs trong giai đoạn này thường là những nơi tuyệt vời để bắt đầu hoặc thêm vào các vị thế mua có lợi nhuận.
Giai đoạn E: Trong giai đoạn E, cổ phiếu rời khỏi TR, nguồn Cầu được kiểm soát hoàn toàn, và việc đánh dấu giai đoạn tăng giá là hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Những trở ngại, chẳng hạn như Shakeout và nhiều phản ứng giá điển hình, thường ngắn ngủi. Các TR mới, ở mức cao hơn bao gồm cả việc thu lợi nhuận và mua thêm cổ phần (“tích lũy lại”) bởi các nhà tạo lập lớn có thể xảy ra tại bất kỳ điểm nào trong giai đoạn E. Những TR này đôi khi được gọi là “bước giá nền tảng” trên đường tiến tới mục tiêu giá cao hơn.

"ĐẦU TƯ VÀO TRI THỨC SẼ ĐEM LẠI LỢI NHUẬN CAO NHẤT "

Thứ Hai, 20 tháng 12, 2021

 Trong chiến tranh mặc dù cũng đối mặt với cái chết nhưng được kích thích bởi sự đoàn kết, ý chí vì chính nghĩa và tương lai tươi sáng; còn trong dịch bệnh thì kích hoạt nỗi sợ hãi về cái chết.

 📕Một vài kinh nghiệm [cá nhân] khi lựa chọn đầu tư 1 mảnh đất Lớn, vùng ven :

📌Lấy TP.HCM làm tâm Compa quay bán kính 100km.

- Chọn 1 địa phương có nhiều hạ tầng công đi ngang qua, cao tốc Bắc- Nam, cầu đường, công trình mang tính biểu tượng,...

- Khu vực có nhiều năng lực phát triển cốt lõi : mật độ dân số, cơ cấu kinh tế Ngành của địa phương ( KCN, nông nghiệp, du lịch,...) văn hóa địa phương.

- Những yếu tố tiện ích bắt buộc: chợ, trường, trạm ( y tế, ..), giáo dục, những yếu tố bắt buộc nền tảng . Khoảng cách không quá 2-3km tính từ mảnh đất.

- Văn hóa và ngành nghề chủ đạo của địa phương rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tính thanh khoản của thửa đất .

- Không quá xa với trục đường Quốc Lộ, chỉ nên 2-3 km là đẹp, còn xa lắm thì 5km đổ lại.

Có đường hiện hữu hiển thị trên sổ, càng nhiều càng tốt, có quy hoạch mở rộng trong tương lai,... điều này rất quan trọng vì khả năng chuyển đổi đất ở sẽ cao.

- Thổ nhưỡng đất tốt, vd đất đỏ bazan hoặc những loại đất phù hợp trồng cây, làm nông nghiệp, dễ có nước ( dễ khoan), ...Nhiều khu vực nhiều đá, rất khó khoan giếng, chi phí để có nước cũng đội lên rất nhiều nếu lựa chọn sai khu vực “khan nước”.

- Phải có điện hoặc nghiên cứu đường điện vào tới đất, do thường những mảnh đất lớn sản xuất nông nghiệp hoặc chăn nuôi rất quan trọng và nếu không chú ý đến thì chi phí để “Kéo Điện” sẽ rất cao, có trường hợp tốn cả vài trăm triệu đồng ( tôi đã được trải nghiệm chi phí đó) .

- Check bản đồ quy hoạch, tầm nhìn 1-2-3-5 năm đổ lại sẽ “có cái gì”, nếu “cái đó” xuất hiện thì BĐS của mình có được lợi gì không ?

- Khi check quy hoạch thì nên để ý ranh giới ĐƯỜNG ĐIỆN CAO THẾ, ranh giới sông/ hồ/ đường xá.

- Cuối cùng là càng rẻ càng tốt, nhìn sổ mới/ cũ để đánh giá đất đã qua đầu tư mới hay chưa ?!,... 

📕Một vài kinh nghiệm cá nhân, rảnh viết chơi cho những người đi mua những quỹ đất lớn, đa phần là đất nông nghiệp chưa qua đầu tư, có khả năng chuyển đổi cao và đón những yếu tố thiên thời, địa lợi của tương lai. Chúc cả nhà, nhất là những người “nghiệp dư” có 1 chút xíu kinh nghiệm để đi đầu tư giữa 1 rừng sản phẩm và hàng trăm nghìn sales/ môi giới rao tin sản phẩm mỗi ngày. Phải có kiến thức, có kinh nghiệm nhất định, mọi quyết định sai lầm đều trả giá bằng Tiền hoặc Rất Nhiều Tiền !

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

 

Happy Live

Cha dạy con trai vào sòng đánh bạc, hai lần trắng tay cay đắng khiến cậu trở thành kẻ bất bại trên thương trường

“Khi nào con đủ 23 tuổi, ta sẽ giao lại cả cơ nghiệp này cho con”, vua tàu biển Harry của nước Mỹ tuyên bố với cậu con trai “Harry nhỏ” của mình như vậy. Nhưng chẳng ai ngờ, đến ngày sinh nhật lần thứ 23 của con trai, ông lại đưa cậu vào sòng bạc…

Một trải nghiệm đáng nhớ

Trong ánh mắt thảng thốt, ngạc nhiên của Harry, ông dúi vào tay cậu 2000 đô la. Liền sau đó, ông dạy cho Harry tất cả các mánh khóe trên bàn bài, dạy một cách thản nhiên và lạnh lùng đến kỳ lạ. Sau cùng, ông nói với cậu một câu thế này: “Dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, con cũng không được để thua hết sạch tiền”.

Harry gật đầu vâng dạ nhưng cha của anh vẫn không yên tâm. Ông nói: “Hãy hứa với ta là con phải giữ được 500 đô la sau khi bước chân ra khỏi đây”. Harry tự tin vỗ vào ngực mình, hứa hẹn chắc nịch: “Con sẽ làm được, cha không phải dặn dò nhiều!”.

Tuy nhiên khi bước vào sòng bạc, ngồi vào bàn chơi, cậu chàng Harry mau chóng bị thôi miên bởi ma lực của những viên xúc xắc, những lá bài. Cậu điên cuồng đặt cửa như con thiêu thân, quên sạch lời cha dặn và lời hứa của mình lúc trước. Chẳng bao lâu sau, Harry thua sạch không còn một đồng.

Cậu chán nản, lê từng bước nặng nhọc ra khỏi sòng bài. Cậu đã tưởng rằng hai ván cuối, nước bài đã đẹp hơn, có thể gỡ lại số vốn ban đầu. Nào ngờ, kết quả còn tồi tệ hơn làm vậy!

Cha của Harry trông thấy con trai của mình mặt mày ủ dột, vẫn điềm tĩnh nói: “Con phải quay trở lại đó một lần nữa“. Rồi ông đột nhiên hạ giọng: “Nhưng lần này ta sẽ không thể cho con thêm một đồng nào nữa. Con sẽ phải tự kiếm lấy những đồng tiền bằng chính mồ hôi nước mắt của mình”.

Khó khăn lắm, Harry mới tìm được một công việc làm thêm. Trong suốt một tháng làm lụng vất vả sau đó, Harry kiếm được 700 đô la. Vậy là cậu lại bước chân vào sòng bạc một lần nữa. Lần này Harry tự đặt ra cho mình một quy tắc: Chỉ được chơi đến hết nửa số tiền trong túi, sau đó bằng mọi giá phải rời khỏi bàn.

Thế nhưng, một lần nữa, Harry lại thất bại. Khi đã thua mất nửa số tiền, bàn chân cậu như bị đóng đinh xuống sàn nhà, không thể nhúc nhích. Và cậu đã không thể giữ vững quy tắc ban đầu của chính mình. Ván cuối cùng, cậu đặt cược toàn bộ số tiền còn lại. Hy vọng lóe len rồi lại vụt tắt. Harry tiếp tục trắng tay.

Cha của Harry lúc ấy ngồi bên cạnh, nhìn cậu mà không nói gì. Ra khỏi sòng bạc, Harry tội nghiệp nhướn ánh mắt buồn tuyệt vọng nhìn cha mình và nói: “Con không bao giờ muốn quay lại sòng bài nữa. Với tính cách của con, chắc chắn con sẽ lại thua cho đến đồng xu cuối cùng. Ngay từ đầu, con đã là một kẻ thất bại rồi!”.

Nhưng chẳng ngờ, cha của cậu nhất quyết không chịu, bắt Harry phải vào sòng bài một lần nữa. Ánh mắt ông đầy cương nghị, nhìn thẳng vào mắt con trai mình, nói: “Sòng bạc là nơi khốc liệt và tàn nhẫn nhất thế giới. Cuộc sống này cũng giống như một sòng bạc lớn vậy. Làm sao mà con có thể bỏ cuộc được đây?”.

Để có tiền, Harry lại phải cật lực kiếm việc làm thêm. Nửa năm sau, lần thứ ba Harry bước vào sòng bạc. Lần này vận đen vẫn đeo bám cậu không dứt, lại là một thất bại nữa. Nhưng khác với hai lần trước, Harry đã bình tĩnh hơn rất rất nhiều. Khi thua một nửa số tiền, cậu nhất quyết bước ra khỏi sòng bạc. Dù thua một nửa tiền nhưng trong lòng Harry dâng lên cảm giác của một người chiến thắng. Lần này, anh đã tự đánh bại được chính mình.

Cha của Harry nhìn thấy niềm vui trong ánh mắt của con trai mình. Ông nói với cậu: “Con nghĩ rằng vào sòng bài là để thắng bạc sao? Không! Con phải học cách chiến thắng bản thân mình trước. Khi có thể kiểm soát chính mình, con mới là kẻ chiến thắng thực sự”.

Khi đang giành chiến thắng, bạn có thể giữ vững nguyên tắc?

Từ đó về sau, mỗi lần vào sòng bạc, Harry đã tự tạo cho mình được một nguyên tắc: Khi mất 10% số tiền trong người, cậu nhất định sẽ rút khỏi bàn. Dần dần, Harry dường như đã thích nghi thực sự với cuộc chơi và bắt đầu có chiến thắng đầu tiên. Không chỉ giữ chắc được số tiền mang theo người, cậu còn thắng được mấy trăm đô la nữa.

Lần ấy, cha cậu đứng bên và cảnh báo Harry rằng đây là lúc nên rời khỏi bàn. Nhưng chiến thắng đầu tiên quả thực quá ngọt ngào, làm sao Harry có thể bỏ cuộc dễ dàng như vậy chứ? Thêm vài ván nữa, Harry lại thắng được số tiền lớn hơn. Tiền trong tay cậu sắp tăng gấp đôi. Đó thực sự là chuyện chưa từng có. Harry càng trở nên phấn khích và bỏ ngoài tai mọi lời khuyên can từ cha mình. Nhưng chẳng ngờ, ở những ván sau, tình thế bắt đầu xấu dần đi. Các đối thủ bắt đầu tăng tiền cược của mình lên gấp nhiều lần. Harry trắng tay chỉ sau vài ván.

Bấy giờ Harry như người mất hồn, vừa sốc vừa bàng hoàng, khắp người đổ mồ hôi lạnh. Lẽ ra cậu đã có thể là kẻ thắng cuộc nếu khôn ngoan làm theo lời khuyên của cha mình. Nhưng bây giờ thì cơ hội chiến thắng đã mãi mãi vuột mất, còn cậu một lần nữa trở thành kẻ thất bại. Thật cay đắng làm sao!

Một năm sau, Harry mới lại tới sòng bạc lần nữa. Harry ngây thơ của ngày xưa giờ đã đầy mình kinh nghiệm, dạn dày sương gió. Dù thắng hay thua, chỉ cần vượt quá 10% số tiền trong túi là cậu sẽ lập tức đứng dậy, rời khỏi sòng bạc. Ngay cả khi đang thắng giòn giã với những nước bài vô cùng sáng sủa, cậu cũng không để cảm xúc lấn át lý trí.

Cha của Harry thầm vui mừng. Bởi ông biết, trên thế giới này, những người có thể dừng lại trong khi đang ở đỉnh cao chiến thắng mới chính là những kẻ chiến thắng thực sự. Một hôm, ông gọi Harry lên và nói: “Ta sẽ giao toàn bộ cơ nghiệp tỷ đô này cho con!“. Harry vô cùng ngạc nhiên, lắp bắp: “Nhưng… nhưng con còn chưa có chút hiểu biết nào về kinh doanh cả!”. Cha của cậu thư thái trả lời: “Kinh doanh không phải chuyện quá to tát. Có biết bao thương nhân trên thế giới đã thất bại không phải vì họ không hiểu chuyện làm ăn mà chính là bởi họ không thể kiểm soát được cảm xúc và ham muốn của mình”.

Vượt qua chính mình bao giờ cũng là cuộc chiến khốc liệt nhất, căng thẳng nhất mà cũng vinh quang nhất. Người ta sống trên đời, lòng đầy ham muốn, chuyện gì cũng có thể làm để thỏa mãn ích lợi cá nhân. Cho nên nói dục vọng không giới hạn chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của đời người cũng chẳng sai. Dục vọng vừa phải, những phấn đấu cá nhân chính đáng, đương nhiên là liều thuốc kích thích hữu hiệu cho sự thăng tiến của bản thân. Nhưng dục vọng điên cuồng, những truy cầu mê muội lại là thuốc độc hại người.

Đã có biết bao người dành cả cuộc đời theo đuổi công danh, bạc tiền để rồi cuối cùng chết vì cái danh, cái lợi? Nó cũng từa tựa như những người ngậm ngải tìm trầm, lang thang khắp núi thẳm hang hoang tìm cây gỗ quý, cuối cùng phải chịu chết rục nơi nước độc rừng thiêng. Cái bả lợi danh bao đời nay vẫn ngấm ngầm chuốc say, chuốc mê mệt cho những kẻ không thể khống chế bản thân mình.

Người thành công không phải là người ham muốn nhiều nhất. Người thành công là người biết tiết chế cảm xúc tốt nhất. Họ biết khi nào tiến, lúc nào lui, biết khi nào ngẩng cao đầu, lúc nào phải hơi cúi thấp. Họ cũng biết cơ hội đến vào lúc nào và bao giờ phải vượt qua nghịch cảnh khó khăn. Nói chung, họ tự làm chủ được bản thân mình.

Còn bạn thì sao, bạn có nghĩ mình đã tự làm chủ được bản thân rồi chứ?

Nguồn: Cafebiz

Có thể bạn quan tâm

Người Đàn Ông Đánh Bại Mọi Thị Trường – Edward Thorp

Từ sòng bạc Las Vegas tới phố Wall

ĐỌC THỬ

ĐẶT SÁCH

CÁC VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ