Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2016

Người giàu ít chuyển nhà, thay vợ và đổi xe.
Trong 5 năm nghiên cứu về những người giàu ở Mỹ, tác giả, diễn giả người Mỹ Thomas Corley nhận thấy về cơ bản cuộc sống của những người giàu đều rất tốt, hạnh phúc. Tác giả của hai cuốn Rich Habits: The Daily Success Habits of Wealthy Individuals và Rich Kids: How To Raise Our Kids To Be Happy And Successful In Life nhận thấy những người giàu có rất nhiều điểm chung.
Những người Mỹ giàu đều biết để dành tiền từ rất sớm, ngay khi mới đi làm, họ đã để dành 20% thu nhập của mình - Ảnh: officesourcemg
Những người Mỹ giàu đều biết để dành tiền từ rất sớm, ngay khi mới đi làm, họ đã để dành 20% thu nhập của mình – Ảnh: officesourcemg
Dưới đây là hình ảnh điển hình của một triệu phú theo nghiên cứu của ông:
1. Họ thực sự giàu. Tài sản của họ ít nhất là 3,2 triệu USD, 16% trong số này có nhiều hơn 5 triệu USD, họ kiếm ít nhất 160.000 USD mỗi năm, một nửa trong số họ kiếm gần 500.000 USD mỗi năm.
2. Họ không trẻ, 80% trong số họ đều đã hoặc lớn hơn 50 tuổi.
3. Họ mất một thời gian dài để tích lũy tài sản, trung bình họ mất 32 năm làm việc và tiết kiệm để trở nên giàu có.
4. Họ yêu thích công việc của mình. 86% trong số họ đều yêu thích công việc mang lại miếng cơm manh áo cho mình mỗi ngày. 61% theo đuổi giấc mơ mà mình đam mê. Trong số này, những người có đam mê với công việc của mình thường trở thành triệu phú chỉ trong 12 năm và họ có tài sản khoảng 7,4 triệu USD.
5. Những người giàu nhất trong số họ đều có những người tư vấn cho sự thành công. Những người này sẽ dạy họ làm gì và không làm gì.
6. Họ đọc sách mỗi ngày để tích lũy kiến thức. 88% đọc sách để nâng cao hiểu biết về nghề nghiệp, 85% đọc ít nhất 2 cuốn sách mỗi tháng, 65% nghe sách trên đài trong thời gian ngồi trên xe di chuyển đến nơi làm việc hay lúc tập thể dục. Họ không đọc để giải trí, họ cho đó là sự lãng phí thời gian.
7. Phần lớn trong số họ là những người tự lập. Họ không kế thừa tài sản của cha mẹ, 31% từng lớn lên trong những gia đình nghèo khó, 45% lớn lên trong những gia đình thuộc tầng lớp trung lưu, chỉ 24% có cha mẹ giàu có, để lại tài sản lớn cho con cái.
8. Họ có nhiều thói quen tốt và ít thói quen xấu, 73% thừa hưởng những thói quen để thành công từ cha mẹ của mình.
9. Họ là những người thích thi đua và cạnh tranh, 63% từng chơi thể thao ở trường trung học.
10. Họ có sức khỏe tốt, họ tập thể dục mỗi ngày, 76% tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày, bốn ngày mỗi tuần. Họ thích chạy bộ, đạp xe. Họ chú ý đến những thực phẩm mình ăn uống mỗi ngày, họ không ăn nhiều đồ ăn vặt, họ không ăn thức ăn nhanh, họ không ăn đồ ngọt, họ không uống say xỉn. Họ chải răng bằng chỉ tơ nha khoa mỗi ngày. Họ ngủ ít nhất 7 tiếng mỗi đêm. Họ không hút thuốc.
11. Họ thích làm cố vấn cho người khác, họ thích giúp đỡ để những người khác cũng thành công trong cuộc sống.
12. Họ dành thời gian và tiền bạc của mình cho các hoạt động thiện nguyện. 72% tự nguyện làm việc từ 5 tiếng trở lên mỗi tháng cho các tổ chức phi lợi nhuận, họ cũng đóng góp tiền cho các hoạt động từ thiện.
13. Họ đều có cố vấn tài chính và luật sư.
14. Họ hạnh phúc.
15. Họ ít chuyển nhà, thay vợ và đổi xe. 64% sở hữu một ngôi nhà khiêm tốn và họ sở hữu ngôi nhà đó ít nhất là 20 năm. Rất ít người ly dị. Họ đi những xe đã mua từ lâu và hiếm khi thuê xe.
16. Họ lập kế hoạch làm việc của mình mỗi ngày, 81% luôn viết ra những gì họ phải làm.
17. Họ không tiêu nhiều tiền cho các kỳ nghỉ dưỡng, 96% tiêu ít hơn 6.000 USD cho nghỉ mát du lịch mỗi năm, 41% tiêu ít hơn 3.000 USD mỗi năm.
18. Họ dậy sớm mỗi ngày. 44% dậy sớm, trước khi ngày làm việc của họ thực sự bắt đầu ít nhất là 3 giờ.
19. Họ là người chủ trong công việc của mình, 91% là những người ra quyết định. Họ có thể là chủ một doanh nghiệp nhỏ, giám đốc điều hành, quản lý cấp cao, luật sư, bác sĩ, tư vấn tài chính, chuyên gia bán hàng, kế toán viên công chứng (cố vấn tài chính).
20. Họ không tiêu xài hoang phí.
21. Họ học đại học, 68% tốt nghiệp đại học, 56% làm việc theo cách của những người học đại học, 25% tốt nghiệp trung học.
22. Họ không sợ rủi ro, 63% chấp nhận rủi ro để trở nên giàu có, 27% từng ít nhất một lần thất bại trong công việc.
23. Họ làm việc rất nhiều, 73% làm việc trung bình 58 giờ một tuần.
24. Họ thích theo đuổi các mục tiêu, 80% trong số họ luôn có một mục tiêu quan trọng để theo đuổi.
25. Họ biết quản lý cảm xúc, không nổi điên hay cáu giận.
26. Họ đi với những người thành công hoặc những người lạc quan.
27. Họ không đi với những người bi quan, tiêu cực lúc nào cũng than vãn phàn nàn. Họ tránh xa những người này như tránh một dịch bệnh.
28. Họ hiếm khi đánh bạc, 84% không bao giờ đánh bạc hay cá cược.
29. Họ tôn trọng luật pháp, 99% chưa bao giờ bị cảnh sát bắt giữ.
30. Họ xây dựng những đội nhóm giúp mình thành công, 84% có một nhóm bao gồm các cá nhân luôn hỗ trợ nhau, dựa vào nhau mỗi ngày.
31. Họ là những người biết để dành tiền. 94% đã tiết kiệm 20% thu nhập của mình từ ngày đầu tiên họ bắt đầu làm việc. Tất cả đều có các khoản tiết kiệm cho hưu trí.
32. Họ có nhiều hơn một nguồn thu nhập, 65% có từ 3 nguồn thu nhập trở lên.
33. Họ hiếm khi xem truyền hình, 67% chỉ xem TV dưới một giờ mỗi ngày.
34. Họ không nói dối, họ thành thật.
35. Họ lạc quan.
36. Họ không phải là những học sinh xuất sắc trong trường học, 77% chỉ là học sinh hạng B hoặc C (khá và trung bình) khi còn đi học. Nhưng họ trở nên thông minh hơn sau khi tốt nghiệp bởi họ tự học, tự đào tạo lại mình, họ không hề ngừng học trong suốt những năm tháng đã trưởng thành.
Hoàng Anh (Theo Business Insider)

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

 Dominik Weil

largest-bitcoin-exchange-suspends-withdrawals.si
Bạn đọc thân mến,
Vài ngày trước chúng tôi đã có dịp gửi đến các bạn phiên bản tiếng Việt của một trong những bài viết hay nhất về Bitcoin từ trước đến nay được viết bởi Marc Andreessen (dịch bởi Nguyễn Hoàng Huy), người đã nhận ra được tiềm năng của Internet vào những năm đầu thập kỉ 90, và đã trở thành một doanh nhân rất thành công về lĩnh vực công nghệ nhờ tầm nhìn của anh.
Trong bài viết đó Andreessen đã có một cảm giác tương tự dành cho công nghệ Bitcoin trong những năm tháng đầu của nó, cái chúng ta đang trải nghiệm hiện nay – một công nghệ mà không còn nghi ngờ gì nữa sẽ thay đổi thế giới mãi mãi, giống như sự phát minh ra Internet hay máy tính cá nhân đã làm trước đây. Và cũng giống như tất cả những cuộc cách mạng trong công nghệ trước đây, nó sẽ giải phóng được một tiềm năng khổng lồ cho sự phát triển kinh tế bởi những ưu thế và sự tiện lợi trong việc chuyển gửi tài sản, giá trị từ nơi này đến nơi khác mà không cần một cơ quan trung gian để gửi gắm tin tưởng (và đây chỉ là mới bắt đầu). Như một hệ quả, Andreessen đã đầu tư nhiều triệu đô la vào một công ty startup tại Mỹ hồi mùa thu năm 2013, Coinbase, hiện đang có khoảng một triệu khách hàng, tốc độ phát triển tăng gần 2% mỗi tuần.
Đáng tiếc thay, Bitcoin hiện vẫn còn nhận được những bài tường trình khá tiêu cực từ truyền thông đại chúng (điều này đang thay đổi theo chiều hướng tích cực ở những xã hội phát triển chẳng hạn như Mỹ, Đức… vì những nước này ngay từ đầu cũng đã có những cái nhìn tiêu cực về Bitcoin), hầu hết các quốc gia khác trên thế giới cũng đang rất phân vân và thận trọng trong việc tiếp xúc với Bitcoin, dẫn đến tốc độ phát triển của nền kinh tế Bitcoin bị kiềm kẹp, và các doanh nhân phải bị đẩy sang những nước khác có quan điểm thân thiện hơn.
Những quan điểm tiêu cực của hầu hết các chính phủ trên khắp thế giới ít hay nhiều gì cũng có thể hiểu được vì những kiến thức phiến diện, thiếu sót họ nhận được về Bitcoin: tội phạm, trốn thuế, chợ đen, thuốc phiện, khủng bố… – rất nhiều những đặc tính này cũng đã từng được dùng để mô tả Internet những năm đầu thập niên 90. Ngày nay, nhiều doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực công nghệ, những người đã thay đổi thế giới này mãi mãi với tinh thần sáng tạo, những ước mơ và ý tưởng của họ. Họ đã xây dựng lên được những công ty có giá trị nhất và được biết đến nhiều nhất khắp thế giới, đóng một vai trò chính yếu trong một thế giới của tất cả những người dùng bình dân ngày nay: Google, Youtube, Yahoo, Facebook, WordPress, Blogspot… Một vài cái tên có thể được kể đến.

Lịch sử lặp lại chính nó?

Tác giả viết ra những dòng này, người đã đào sâu vào cái “hang thỏ” có tên Bitcoin hơn 12 tháng vừa qua, đã từng tới tham dự nhiều buổi hội thảo Bitcoin quốc tế cũng như những buổi gặp gỡ trao đổi địa phương – về đời sống riêng tư thì hiện cũng đang có một mối quan hệ gia đình rất gắn bó với Việt Nam, ít nhất thì đó cũng là lý do cho bài viết này – muốn nhấn mạnh rằng, có rất nhiều trường hợp đã được quan sát thấy nói lên điều đó, rằng lịch sử dường như – bằng cách nào đó – lặp lại chính nó – và rằng cuộc cách mạng kĩ thuật số lần thứ hai này sẽ thay đổi thế giới chúng ta, sẽ đưa nó lên một tầm cao mới, cao hơn kết quả mà Internet đã làm trong suốt hai thập kỉ vừa qua.
Protocol của Bitcoin là một sự đột phá trong công nghệ, và nó sẽ cho phép rất, rất, rất nhiều những sáng tạo mới được hình thành dựa trên nền tảng công nghệ mới này – một số hiện đã nằm trong các dự án của những nhà phát triển thông minh và hăng say khắp thế giới.
Bitcoin – thậm chí là ngay trong giai đoạn này – là dự án phần mềm mã nguồn mở thành công nhất mà thế giới đã từng thấy – với nguồn nhân lực mạnh nhất, hiệu quả nhất, sáng tạo nhất mà thế giới đã từng thấy. Hàng chục ngàn lập trình viên khắp thế giới đang làm việc, tạo dựng ra một hệ sinh thái mới mỗi ngày; hàng trăm ngàn người khác đang lan truyền tin tức, kiến thức về Bitcoin mỗi ngày… và những con số này sẽ phát triển theo cấp độ lũy thừa trong những năm tháng sắp tới.
Bitcoin là một phát minh, điều đó có nghĩa là nó sẽ không thể bị “undo” – cũng giống như sự phát minh ra Internet cũng không thể bị “undo”. Thần đèn cuối cùng cũng đã chui ra khỏi đèn – và không thể có một cách nào để từ chối hay thậm chí tiêu hủy sự tồn tại của nó ngay bây giờ. Nên câu hỏi duy nhất được đặt ra ngay lúc này là: Liệu bạn sẽ trở thành một người ủng hộ và cùng những người khác tạo ra cuộc thay đổi, hay bạn sẽ lờ đi hay thậm chí chống lại cơn sóng không thể dừng này, cho tới khi thực tại về Bitcoin cuốn trôi bạn đi?
Đúng thế, hình ảnh so sánh này cũng đúng theo một khía cạnh khác, bạn không thể bóp nát Bitcoin. Nếu bạn cố nắm lấy nó, nó sẽ chỉ trôi qua những kẽ tay của bạn, mỗi nỗ lực khiến bạn trông như một tên ngốc.
Điều này đúng với protocol của Bitcoin, chương trình điện toán, đồng tiền tệ, mạng lưới, cộng đồng… tất nhiên bạn cũng vẫn có thể nhắm vào một đơn vị lẻ tẻ nào, vì bất cứ lý do nào bạn muốn nhắm vào họ (tôi sẽ trở lại điểm này sau bên dưới).

Vậy thì, nếu tất cả những điều này là đúng, nói tóm lại Bitcoin là gì và tại sao nó lại quan trọng cho Việt Nam?

Vâng, bài viết này không phải là nơi để giải thích cặn kẽ chi tiết cách vận hành của Bitcoin. Đã có rất nhiều nguồn tin trên Internet và những buổi gặp mặt địa phương đang nhắm tới việc giới thiệu cho mọi người về công nghệ tuyệt vời đang trở nên càng ngày càng phổ biến và thông dụng trên khắp thế giới.
Hơn thế nữa tôi muốn gửi đến bạn, những độc giả thân mến của tôi, trong trường hợp bạn chưa thực hiện, lời kêu gọi khẩn thiết: Hãy dành ra một chút thời gian ngày hôm nay để tìm hiểu về Bitcoin. Tôi hứa với bạn, rằng thời gian bạn bỏ ra hôm nay để tìm hiểu về nó, có thể sẽ là một trong những quyết định sáng suốt nhất bạn từng đưa ra trong đời.
Tôi đang nói chuyện với các bạn dựa trên kinh nghiệm, và tôi chưa từng gặp một người nào – và tôi đã gặp và nói chuyện với hàng trăm người khắp trái đất – những người thật sự đã bỏ công ra tìm hiểu, mà không đang chia sẻ trải nghiệm này! Thêm vào đó: Khi bạn đã bắt đầu hiểu được những vấn đề căn bản, hãy bắt đầu sử dụng nó! Giây phút bạn thực thiện một giao dịch Bitcoin đầu tiên trong đời, bạn sẽ có được cái cảm giác rất, rất hiếm khi xảy ra trong đời, nó như một sự bừng tỉnh bất chợt, một cú sét đánh trong tâm thức.
Thậm chí là ngay bây giờ, sau rất, rất, rất nhiều lần giao dịch Bitcoin, cú sét đánh tâm thức này vẫn liên tục xảy ra không ngừng. Khi tôi gửi cho vợ tôi một khoản Bitcoin nhỏ trị giá 5 đô la băng qua một khoảng cách 10,000km trong nháy mắt, chỉ qua Skype, vợ tôi và cái smartphone và ứng dụng đọc mã QR, điều này chưa bao giờ có thể xảy ra trong lịch sử loài người trước giờ.
Ảnh hưởng phụ tiêu cực của sự bừng tỉnh này cũng khá rõ rệt. Bạn rõ ràng thấy được mỗi ngày rằng cơ chế tài chính ngày nay đã lỗi thời trong công nghệ như thế nào, nó càng ngày càng suy sụp, thiếu hiệu quả và nặng nề. Cơ chế thanh toán thông dụng hiện nay quá chậm chạp, tốn kém, bảo mật kém, đặc biệt là khi bạn “gặp xui” trải nghiệm sự giác ngộ qua phát minh độc đáo của Satoshi Nakamoto. Nhưng thông điệp tốt gửi đến bạn là: Tất cả những thứ này sẽ thay đổi!
Không có cách nào để cho hệ thống thanh toán và tài chính yếu kém hiện tại có thể kháng cự lại sự cạnh tranh của công nghệ mới, được phát minh ra cách đây 5 năm. Nó có thể cần thêm vài năm nữa, nhưng hướng đi của nó thì đã khá rõ ràng.
Như tôi đã thảo luận và giải thích ở trên, Bitcoin và những loại coin khác tiếp bước nó sẽ trở thành tương lai của tiền tệ và thanh toán (và rất nhiều thứ khác), và rằng tại thời điểm này, không có cách nào có thể chặn đứng lại những biến chuyển đang mau chóng diễn ra nữa.
Nếu tất cả những điều này là sự thật, vậy thì mục đích của việc cấm Bitcoin nói chung và cứ nói rằng loại tiền này chỉ được dùng bởi những thành phần phạm pháp, khủng bố, cá độ, rằng nó sẽ gây tổn hại đến kinh tế, tiềm ẩn rủi ro, hay tạo ra một sự xuống dốc trong đạo đức và chịu trách nhiệm cho rất nhiều những nguy cơ không mong muốn khác?
Vâng, câu trả lời quá dễ dàng nếu bạn thật sự hiểu được mức độ ảnh hưởng của Bitcoin: Không có mục đích gì cả.
Như tôi đã nói ở trên, tôi đã gặp và nói chuyện với hàng trăm Bitcoiners suốt năm qua, và nếu những linh cảm và trực giác của tôi đúng, những gì tiêu cực mà báo chí miêu tả về một người dùng Bitcoin thông thường là không chính xác.
Cá nhân tôi chưa bao giờ gặp được những nhóm người nào rất thông minh, có suy nghĩ sâu sắc, có những góc nhìn toàn diện và một tinh thần hướng đến lý tưởng như những thành viên trong cộng đồng Bitcoin mà tôi đã gặp trong các buổi hội thảo. Người ta đã quá chán ngán cái hệ thống tài chính hiện tại khi nó liên tục cướp đi những đồng tiền mồ hôi nước mắt họ làm ra được bởi những vụ lừa đảo, lạm phát, và tịch thu… Họ đang hứng khởi cùng Bitcoin xây dựng lên một tương lai tốt đẹp hơn cho phần đông loài người. Và vì thế nó rất quan trọng để nhấn mạnh rằng, tác động tích cực của Bitcoin thậm chí sẽ mạnh hơn trong các thị trường chớm nở với một nền công dân chưa có tài khoản ngân hàng, so với các nước đã phát triển. Bitcoin sẽ, cũng như tất cả những phát minh công nghệ quan trọng khác trước nó, giúp cho nhiều tỉ người nghèo khắp thế giới cung cấp một sức sống kinh tế mới cho họ, cái chưa từng được biết đến trước đây trong lịch sử.

Chúng ta có thể rút ra được kết luận gì từ câu chuyện này?

Những quốc gia không thân thiện với Bitcoin rõ ràng sẽ là những quốc gia bị bỏ lại đằng sau, so với những quốc gia cho phép nền kinh tế non trẻ Bitcoin có được cơ hội phát triển và những thành viên, doanh nghiệp trong cộng đồng có cơ hội sáng tạo, làm cho nó càng ngày càng thuận tiện và hiệu quả hơn về mặt kinh tế.
Khoảng thời gian từ 2013 đến 2015 sẽ quyết định, quốc gia nào sẽ là nước tiên phong trong cuộc cách mạng công nghệ này, và quốc gia nào sẽ là những nước “lề mề theo sau” trong việc chấp nhận công nghệ mới này.
Vì thế nó rất quan trọng, rằng các chính phủ và các cơ quan thẩm quyền không nên vội đưa ra những luật lệ cấm đoán, ngăn cản, và giới hạn. Vì điều này sẽ tạo ra hiện tượng chảy máu chất xám, những cá nhân thông minh, sáng tạo sẽ tìm cách bỏ sang một nước khác thoải mái với Bitcoin hơn để làm việc.
Chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên, nơi mà những đầu óc thông minh nhất, có kiến thức nhất, sáng tạo nhất phải được nghiêm túc coi trọng bởi mọi đất nước, vì họ chính là thành phần có khả năng cung cấp cho đất nước đó những cơ hội tốt nhất trong thời đại cạnh tranh toàn cầu trong thế giới càng ngày càng được toàn cầu hóa này.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay, không kể đến thế mạnh của nó trong mức nhân công thấp trong những ngành nghề lao động tay chân so với khu vực, vẫn chưa thể cạnh tranh với những sản phẩm công nghệ cao trên thị trường thế giới và trong những ý tưởng sáng tạo, và startups còn hiếm thấy hơn nữa, trong một đất nước 90 triệu cư dân. Và, mặc dù là điều này có lẽ khó chấp nhận đối với những người có tư tưởng nên kế hoạch hóa mọi thứ từ trung ương, không có cách nào, những kế sách kinh tế trung ương có thể đạt được cùng một kết quả trong lĩnh vực cạnh tranh khốc liệt này, so với những cá nhân, doanh nghiệp linh động uyển chuyển, một sự “hỗn loạn sáng tạo”, những công ty startup đẳng cấp thế giới đang dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ như chúng ta hiện thấy.
Vâng, đúng là đã có những người đã sử dụng Bitcoin cho những hoạt động phi pháp. Nhưng: Đây là một góc nhìn rất phiến diện và cũng phi logic, nếu một người rút ra kết luận: “Bitcoin đã từng được sử dụng cho những hoạt động tội phạm, vì thế tất cả những người dùng Bitcoin đều là tội phạm.”
Việt Nam Đồng, Đô La Mỹ, Yuan Trung Quốc, Euro hay bất cứ loại tiền tệ thông thường nào bạn có thể nghĩ đến cũng đã từng được sử dụng cho vô số những hình thức tội phạm, trốn thuế, mua bán thuốc phiện, mại dâm, tài trợ khủng bố, mỗi ngày. Có phải TẤT CẢ những người dùng những đồng tiền này vì thế đều là tội phạm/thành phần nghiện ngập/khủng bố/môi giới mại dâm không? Đây chính là điều phi logic, đằng sau những phán xét tiêu cực lên những người dùng Bitcoin cho rằng tất cả họ đều là tội phạm hay ít nhất cũng là những người đáng nghi ngờ nói chung.
Tại thời điểm này, cũng cần thiết để xua đi một thành kiến thường được nhắc đến khác với những người rõ ràng là không thật sự hiểu về Bitcoin một cách trọn vẹn: Bitcoin là một phương tiện thanh toán ẩn danh, vô danh (anonymous), không thể lần tra dấu vết và vì thế nó là một phương tiện hoàn hảo cho các hoạt động phạm pháp
Không hề.
Bitcoin là “pseudonymous” (có tính chất giả danh), không phải vô danh (anonymous). Nó có thể được lần tra dấu vết hơn bất kì loại tiền tệ nào khác trước giờ. Thực tế là: Tôi có thể nhìn thấy trực tiếp, real time, trong mạng lưới sổ cái công cộng, tiền đang chạy từ đâu đến đâu, điều này hoàn toàn trái ngược với định nghĩa “untracable” (bất khả truy).
Vì thế, nếu tôi muốn thực hiện một phi vụ trái phép, khủng bố hay đơn giản chỉ là trả tiền cho gái mại dâm, và không muốn bất kì một ai có thể phát hiện ra, tốt hơn là tôi nên dùng tiền mặt, nó mới đích thị là bất khả truy và ẩn danh hơn nhiều so với Bitcoin.
Và đúng, nó có thể cũng đúng, rằng Bitcoin mở ra một số cơ hội mới cho tội phạm, nhưng nó cũng mở ra những cơ hội mới cho tất cả những người khác!
Rất nhiều băng nhóm trộm cướp trên những con đường Sài Gòn sử dụng “sự phát minh ra xe máy” như một phương tiện cho các hoạt động của chúng, bằng cách phóng nhanh vượt ẩu luồn lách khỏi hiện trường với những “cỗ máy cho phép phạm tội” thay vì chạy bộ bằng chân. Nhưng có lẽ ngoài bọn trộm cướp ra thì tất cả những người còn lại cũng được hưởng lợi từ sự phát minh ra xe máy này. Tôi nghĩ rằng một người có thể chắc chắn nói, nền kinh tế Việt Nam sẽ yếu hơn gấp trăm lần nếu xe máy bị cấm và xử lý.
Thật quan trọng phải nói rằng chúng ta không nên chỉ tập trung vào những mặt tiêu cực của một phát minh, mà còn phải biết nhìn vào những mặt tích cực của nó, điều này có thể thực hiện được bằng cách đón nhận nó như một công nghệ mới.
Trong những tuần lễ qua, lần đầu tiên tôi có thể nhớ được rằng, một lập trình viên người Việt đã nổi danh như cồn khắp thế giới với trò chơi Flappy Bird, một thành công vang dội quá bất ngờ trong thị trường đang bùng bổ cho game mobile trên thế giới. Mặc dù là bản thân tôi có thói quen theo dõi sát sao tình hình tin tức về công nghệ ở Việt Nam, thật sự tôi không thể nhớ được, rằng một sản phẩm Việt Nam từng bao giờ trở thành một hiện tượng toàn cầu.
Đây không phải là những dòng tít chúng ta muốn thấy về Việt Nam hay sao? Rằng những người sáng tạo Việt Nam, những doanh nhân, những lập trình viên Việt Nam có đủ khả năng để cạnh tranh với thị trường thế giới trong bất cứ ngành nghề nào họ chọn hoạt động? Rằng những công ty startups Việt Nam sẽ nhờ vào những sáng tạo trong công nghệ để mang lại việc làm, cơ hội, tài sản, sáng tạo và một tiêu chuẩn sống cao hơn cho nước nhà?
Vì thế, tôi muốn gửi đến Việt Nam một lời kêu gọi dứt khoát: Hãy để cho nền kinh tế Bitcoin sinh sôi nảy nở trong nước các bạn. Xử lý và kết án bọn tội phạm, những ai lạm dụng công nghệ này. Nhưng đừng kết án những người sẵn sàng sử dụng công nghệ này cho những mục đích tốt đẹp nhất. Hãy để cho các doanh nhân một cơ hội bằng cách chấp nhận công nghệ này, hãy để cho các nhà phát triển nới rộng sự tiện lợi của nó, và cho đất nước các bạn một cơ hội để bắt kịp với sự thay đổi chóng mặt của thế giới được gây ra bởi Bitcoin và tất cả những sáng tạo khác bắt nguồn từ nó.
Bitcoin không phải là đồng tiền của tội phạm. Bitcoin là đồng tiền của mọi người!
 *********
Tác giả: Dominik WeilTư vấn, Đồng sáng lập Bitcoin Frankfurt và giám đốc quản trị  Bitcoin Azerbaijan
Chuyển dịch: Nguyễn Hoàng Huy

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

Lãnh đạo và cầm quyền
Giáp Văn Dương

Trong những năm học tập và làm việc ở nước ngoài, một trong những điều tôi luôn lưu ý tìm hiểu là: Vì sao họ lại phát triển, còn mình thì không?
Tôi nhận ra rằng, thoạt nhìn thì câu trả lời có thể là do thể chế, hoặc do văn hóa, hoặc do những đặc thù về vị trí địa lý. Nhưng khi suy nghĩ kỹ hơn thì thấy rằng, phía sau tất cả các yếu tố này, bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của nhà lãnh đạo xuất sắc. Có thể nhà lãnh đạo chính là người tạo ra các yếu tố này, hoặc chính là người đã khai thác hiệu quả các yếu tố này, để dẫn dắt sự phát triển của dân tộc họ. Ngay cả khi không có một nhà lãnh đạo xuất sắc hiện diện ở ngay trong hiện tại, thì thể chế ưu việt và nền văn hóa tích cực do những nhà lãnh đạo tiền bối của họ kiến tạo ra vẫn đang đóng vai trò dẫn dắt. Khi đó, chính những nhà lãnh đạo quá cố đó, vẫn đang tiếp tục lãnh đạo gián tiếp đất nước của họ thông qua các di sản về thể chế và văn hóa mà họ đã gây dựng.
Như vậy để thấy, lãnh đạo chính là yếu tố mang tính quyết định đến sự phát triển của một tổ chức, và rộng hơn là của cả một dân tộc. Đặc biệt là trong các thời khắc khó khăn thì vai trò của nhà lãnh đạo lại càng lớn, do phải đương đầu với những tình huống chưa từng gặp qua và đòi hỏi phải ra được những quyết định chính xác mang tính sống còn. Vì thế có thể nói, giới hạn của nhà lãnh đạo chính là giới hạn phát triển của tổ chức mà người đó lãnh đạo, và giới hạn phát triển của một dân tộc, cũng bị quy định bởi chính giới hạn của những người đang lãnh đạo dân tộc đó. Nói cách khác, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển hoặc kìm hãm đất nước. Lựa chọn lãnh đạo đất nước chính là lựa chọn vận mệnh của cả dân tộc.
Trong một thế giới nhiều biến động, vai trò của nhà lãnh đạo lại càng nổi bật và trở nên quan trọng. Vì vai trò của nhà lãnh đạo là để chèo lái quốc gia trong những hoàn cảnh khó khăn hoặc bất định hoặc đòi hỏi sự bứt phá. Nếu không có khó khăn, không có bất định, hoặc không đòi hỏi sự bứt phá thì khi đó chỉ cần một nhà quản lý có năng lực để đảm bảo mọi việc diễn ra theo cách bình thường, chứ không cần đến một nhà lãnh đạo đích thực. Vì nhà quản lý sẽ tập trung vào việc thực hiện các kế hoạch đã đặt ra, còn nhà lãnh đạo sẽ thiết kế và hiện thực hóa một tương lai hoàn toàn mới, một sự phát triển mang tính bứt phá, hoặc một chuyển hướng mang tính chiến lược có ảnh hưởng tốt đẹp cho nhiều thế hệ kế tiếp.
Vì quan trọng như vậy, nên lãnh đạo bao giờ cũng là một quan tâm của mọi giới trong xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở mọi nước trên thế giới. Với hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, thì chất lượng lãnh đạo lại càng quan trọng, khi phần lớn  người dân Việt Nam không được trực tiếp lựa chọn lãnh đạo tối cao của mình. 
Thực tế phát triển của các quốc gia cho thấy, đất nước nào lãnh đạo anh minh thì dân tộc đó cất cánh chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có thể chứng nghiệm trong một đời người, mà Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore là những ví dụ nhãn tiền, còn dân tộc nào có  lãnh đạo u mê thì dân tộc  đó chìm trong nghèo hèn hàng thế kỷ, không biết khi nào mới ngóc đầu lên được, thậm chí, ngay sự tồn tại của mình cũng không chắc được đảm bảo. 
Từ trong sâu thẳm, nhà lãnh đạo bao giờ cũng mang trong mình những sứ mệnh lớn hơn bản thân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Đó có thể là sứ mệnh giải phóng dân tộc, hoặc tạo ra một sự phát triển vượt bậc cho dân tộc, hoặc giải phóng con người ra khỏi u mê giáo điều. Chính sứ mệnh lớn lao đó chứ không phải những kiến thức chuyên môn, hoặc bè phái cấu kết, làm lên tầm vóc của nhà lãnh đạo, và tạo ra sự phát triển cho cả dân tộc mà họ lãnh đạo. 
Vậy nên, muốn phát triển, dù là một tổ chức hay một đất nước, thì điều kiện tiên quyết là tổ chức hoặc đất nước đó phải lựa chọn được một nhà lãnh đạo tối cao xuất chúng. Đó phải là một nhà lãnh đạo đích thực, chứ không phải là một nhà cầm quyền, dù về mặt hình thức, lãnh đạo và cầm quyền có nhiều nét tương đồng. 
Chính nhà lãnh đạo đó sẽ là người thiết kế ra những tương lai mới, và thuyết phục được toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, để sau đó huy động toàn lực để hiện thực hóa tương lai đó. Thông qua đó, nhà lãnh đạo nhận được sự tin tưởng, và bản thân sự lãnh đạo, như một sự ban trao từ phía người dân. Nếu người được bầu chọn không có khả năng thiết kế ra một tương lai như vậy, và không có khả năng thuyết phục toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, và không thể tập hợp được đủ người tài và nguồn lực để hiện thực hóa tương lai đó, thì đó là một sự lựa chọn nhầm lẫn. Trong trường hợp đó, cùng lắm chúng ta cũng chỉ có một nhà cầm quyền, chứ không phải là một nhà lãnh đạo. 
Lưu ý rằng, sự lãnh đạo và sự tin tưởng đích thực, bản thân nó không tự xuất hiện với nhà lãnh đạo, cũng không thể giành giật được, mà chỉ có thể có được thông qua sự ban trao từ phía những người được lãnh đạo. Nếu không được ban trao, sự lãnh đạo chỉ có thể gọi tên là sự tiếm quyền. Vì thế, nhà lãnh đạo chỉ xuất hiện khi việc bầu cử được diễn ra trong dân chủ, công khai và minh bạch. 
Giờ vừa sang năm 2016, Việt Nam dự kiến sẽ sớm hội nhập sâu rộng với thế giới sau khi hiệp định TTP được ký kết. Nhu cầu phát triển bứt phá của Việt Nam cũng đang là yêu cầu bức thiết, khi chỉ còn khoảng 10 năm nữa thôi là thời kỳ dân số vàng để phát triển sẽ qua đi và bẫy thu nhập trung bình thì đang giăng ra trước mắt. Trong hoàn cảnh đó, một nhà lãnh đạo đích thực là điều mà Việt Nam cần nhất. 
Nhưng nhìn quanh thấy thời khắc chuyển giao lãnh đạo đang diễn ra rầm rộ, mà câu chuyện về lãnh đạo vẫn chưa được bàn thảo đầy đủ. Ngoài việc bàn tán ai đi ai ở, với hàm ý ai sẽ nắm quyền lực, thì câu hỏi cơ bản: lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác với cầm quyền như thế nào, lại không thấy ai bàn.
Vậy tại sao lại không đi thẳng vào câu hỏi này: Lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác cầm quyền ở điểm nào?
Khi đã chọn nhìn thẳng vào những câu hỏi căn cốt như thế, thì cách hiểu về lãnh đạo và lựa chọn lãnh đạo cũng sẽ khác đi. Ai đi ai ở không phải là quan trọng nhất, mà ai xứng đáng là lãnh đạo và làm sao để có được người xứng đáng đó mới là điều cốt yếu. 
Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ chỉ một điểm này. Những nội dung khác, sẽ bàn trong các dịp thuận tiện khác. 
Trước hết cần lưu ý, vì lãnh đạo thường gắn liền với quyền lực và chức vị, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, nên khi nói đến lãnh đạo, người ta sẽ liên hệ ngay đến chức vị và quyền lực. Do đó, lãnh đạo thường bị đồng nhất với cầm quyền. Nhưng lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau về bản chất. Nhà lãnh đạo không nhất thiết phải có chức vị và phải cầm quyền, còn người cầm quyền, dù có cả chức vị đi theo, cũng chưa chắc đã là nhà lãnh đạo. Chính sự nhầm lẫn về lãnh đạo và cầm quyền đã gây ra những cuộc đua nắm giữ quyền lực không phải cách, dẫn đến việc tạo ra các nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì các nhà lãnh đạo đích thực. Và quyền lực trong trường hợp này trở thành mục tiêu của nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì là công cụ của của nhà lãnh đạo đích thực. 
Vậy sự khác biệt đó là gì?
Cách thức đạt được quyền lực
Điểm khác biệt đầu tiên là khác biệt trong cách thức đến với quyền lực. Đây là điểm khác biệt mấu chốt, dẫn đến các cách hành xử khác nhau của nhà lãnh đạo đích thực và nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo. Với nhà lãnh đạo chính trị, quyền lực và rộng hơn là sự lãnh đạo, phải được ban trao từ phía người dân trong sự tin tưởng và tự nguyện. Còn với nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo, quyền lực này có thể đến được thông qua sắp đặt hoặc chiếm đoạt.
Vì sự lãnh đạo là được ban trao từ phía người dân, nên khi thấy nhà lãnh đạo không đáp ứng được kỳ vọng của mình, người dân có quyền và có cơ chế để lấy lại sự ban trao này. Vì thế, lãnh đạo bao giờ cũng gắn liền với nhiệm kỳ. Còn cầm quyền thì ngược lại, quyền lực đến với nhà cầm quyền không bởi sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, nên về bản chất là không có nhiệm kỳ, và nhân dân bị ngăn cản để lấy lại quyền lực lẽ ra sẽ thuộc về nhà lãnh đạo do nhân dân lựa chọn. Vì lẽ đó, với nhà lãnh đạo thì quyền lực chỉ là một phương tiện để thực hiện công việc lãnh đạo của mình. Còn với nhà cầm quyền, quyền lực trở thành mục đích. 
Lưu ý rằng, sự ban trao lãnh đạo này chỉ có thể được thực hiện thông qua bầu cử dân chủ và minh bạch. Điều đó có nghĩa, bầu cử để lựa chọn nhà lãnh đạo là quan trọng, nhưng cách thức bầu cử còn quan trọng hơn. Chỉ thông qua bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo mới được ban trao quyền lực. Còn bất kỳ hình thức ban trao nào khác, dù nhân danh bất cứ điều gì hoặc bất cứ giá trị nào, như dòng dõi của các hoàng gia, hay đức tin của các tôn giáo, hay đề cử riêng của các đảng phái, hay bất cứ một nhân danh nào khác ngoài lá phiếu của người dân, thì đó không phải là một sự ban trao đích thực, mà thực chất là một sự sắp xếp. Lãnh đạo có được thông qua sắp xếp, dù theo chủ ý nhất thời của một thế lực nào đó, hoặc là sự mở rộng tự nhiên của truyền thống, thì cùng lắm cũng chỉ có thể là nhà cầm quyền. Còn nếu không thì sẽ rơi vào trạng thái bù nhìn cho các thế lực hậu trường giật dây.
Đó là lý do vì sao ở các quốc gia quân chủ lập hiến, khi ngôi vua được kế thừa theo kiểu cha truyền con nối, thì ngôi vua đó chỉ có giá trị biểu trưng về mặt văn hóa và truyền thống, đóng vai trò như một kết nối trong khối đoàn kết của toàn dân, còn nhà lãnh đạo thực sự đang dẫn dắt quốc gia đó vẫn phải được bầu theo nhiệm kỳ để thông qua đó, nhà lãnh đạo được ban trao quyền lực.
Bản chất công việc lãnh đạo
Điểm khác biệt thứ hai là khác biệt trong công việc thực sự của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Với nhà lãnh đạo, công việc của anh ta là  thiết kế một tương lai chung cho tất cả mọi người, thuyết phục được mọi người tin tưởng vào tương lai đó, và cuối cùng là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó. Anh ta được ban trao quyền lực, và rộng hơn là ban  trao sự lãnh đạo, để thực hiện công việc thiết kế tương lai và hiện thực hóa tương lai này. Thiết kế tương lai chung, trước hết dưới dạng các viễn cảnh được mô tả rõ ràng và thuyết phục, và sau đó là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó, là công việc chủ chốt của nhà lãnh đạo. 
Nhưng với nhà cầm quyền, vì quyền lực và vị trí của họ không đến thông qua sự ban trao tự nguyện của người dân, công việc của  nhà cầm quyền sẽ chỉ tập trung vào việc giữ cho bằng được quyền lực và vị trí của mình. Họ sẽ tìm mọi cách hợp thức hóa việc nắm giữ quyền lực và vị trí này, thông qua mọi phương tiện, không chỉ tuyên truyền mà còn cả đe dọa và đàn áp. 
Ngay cả khi nhà cầm quyền chủ ý thiết kế và hiện thực hóa một tương lai nào đó, thì tương lai này vẫn sẽ bị giới hạn bởi điều kiện tiên quyết là không ảnh hưởng đến quyền lực và vị trí anh ta đang nắm giữ. Vì thế, tương lai đó không bao giờ là tương lai tốt nhất có thể có, và chỉ có thể đáp ứng được mối quan tâm của một nhóm người có lợi ích liên quan, chứ không phải của tất cả mọi người, trừ phi nhà cầm quyền tự chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo. 
Miền thời gian lưu trú
Điểm khác biệt thứ ba là miền thời gian mà nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền đến sống và làm việc ở trong đó. Với nhà lãnh đạo, miền thời gian mà họ sống và làm việc là tương lai của chính dân tộc họ, và họ phải là hiện thân của chính tương lai đó. Vì thế, họ phải là người có tầm nhìn, phải có khả năng nhìn thấy tương lai, từ đó thiết kế ra một tương lai  tốt hơn cho tất cả mọi người và tạo động lực để tất cả mọi người cùng hiện thực hóa tương lai đó. Nhà lãnh đạo tìm thấy bản thân mình và tính chính danh trong công việc của mình ở trong tương lai. Nhưng tương lai bao giờ cũng bất định, vì lẽ đó, nhà lãnh đạo đòi hỏi không chỉ giỏi về chuyên môn, mà quan trọng trước hết là bản lĩnh dám đối mặt với sự thay đổi, dám ra những quyết sách lớn và dám chịu trách nhiệm với những quyết sách lớn đó. Nhưng các nội dung này lại phải đặt trong bối cảnh của sự ban trao quyền lãnh đạo từ phía người dân, nên nhà lãnh đạo trước hết phải có đạo đức để tạo ra sự tin tưởng, và khả năng tập hợp người tài để sau khi đã thiết kế ra một tương lai chung, thì còn phải hiện thực hóa tương lai đó. 
Còn nhà cầm quyền thì ngược lại, họ sẽ thường  trú ngụ trong quá khứ, vì chỉ trong quá khứ, nơi các sự kiện đã xảy ra, họ mới tìm ra được các lý do để biện minh cho sự tồn tại của mình ở trong hiện tại, theo nghĩa hiện tại là sự nối dài của quá khứ. Còn trong tương lai, các  sự kiện chưa xảy ra, nên dù có muốn, họ cũng không thể sử dụng. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không cần bản lĩnh đương đầu với một tương lai bất định, mà chỉ cần nhiều mưu mô để bày binh bố trận, sắp xếp quá khứ và hiện tại sao cho có lợi nhất cho mình. Nhà cầm quyền cũng sẽ không cần người tài để hiện thực hóa một tương lai đã được thiết kế, mà cần trước hết các bè phái hoặc nhóm lợi ích thân tín để bảo vệ lẫn nhau và duy trì quyền lực cũng như vị trí hiện thời. 
Trong nhiều trường hợp, nếu nhà cầm quyền cũng quan tâm đến tương lai và thiết kế ra một tương lai mới, thì phải xét xem tương lai đó đáp ứng được lợi ích chính của nhóm đối tượng nào. Nếu tương lai đó chỉ phục vụ cho lợi ích của một nhóm, nhưng nhân danh cả dân tộc, thì đó là một thủ thuật của nhà cầm quyền, còn nếu tương lai đó đáp ứng lợi ích chung của toàn dân, thì trong trường hợp đó, nhà cầm quyền đã tự chuyển hóa thành nhà lãnh đạo. 
Như vậy có thể thấy, nhà lãnh đạo là người sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến tương lai, còn nhà cầm quyền sẽ sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến quá khứ. Vậy nên, khi nghe các ứng viên thuyết trình, nếu họ nói về tương lai và về chương trình hành động để hiện thực hóa tương lai đó, và thuyết phục người dân tin tưởng vào tương lai đó và đồng lòng hiện thực hóa nó, ta biết đó là nhà lãnh đạo. Còn nếu ứng viên nói về quá khứ, và dùng quá khứ như một sự đảm bảo cho tính chính đáng của mình, thì ta biết đó là nhà cầm quyền.
Một cách logic, chỉ người sống trong tương lai mới có thể đưa toàn dân đi đến tương lai. Sự phát triển đột phá sẽ chỉ xảy đến trong trường hợp này. Còn người sống trong quá khứ, sẽ muốn toàn dân trú ngụ ở trong quá khứ, đặc biệt là quá khứ có chút hào quang. Tuy nhiên, thời gian không ngừng trôi, tương lai không thể tránh, nên tương lai trong trường hợp của nhà cầm quyền sẽ là chỉ đơn thuần là sự mở rộng của quá khứ. Nó chỉ đơn thuần là sự tịnh tiến trong thời gian của quá khứ. Mọi sự đều có thể đoán biết trước mà không có sự phát triển đột phá nào có thể đến. Đó chính là lý do vì sao các thể chế phong kiến có thể kéo dài hàng nghìn năm mà sự phát triển cứ như giậm chân tại chỗ. Vì họ chỉ sống trong quá khứ, luôn lấy quá khứ làm chuẩn mực, nên không vượt qua được quá khứ của mình. Mà đã không vượt qua được quá khứ của mình thì thời gian trôi họ cũng sẽ chỉ giậm chân tại chỗ mà thôi. 
Nếu giậm chân tại chỗ có thể là mục đích của nhà cầm quyền, thì đó là điều không nhà lãnh đạo nào mong muốn. Vì khi để dân tộc giậm châm tại chỗ, trong khi các dân tộc khác vẫn không ngừng mải miết tiến lên, nhà lãnh đạo đã không hoàn thành sứ mệnh của mình, vì thế sự lãnh đạo mà họ đã được ban trao sẽ bị nhân dân lấy lại. Còn nhà cầm quyền thường tìm cách kiểm soát xã hội để ngăn chặn nguy cơ này, nên họ có thể hài lòng với trạng thái giậm chân tại chỗ này, miễn sao quyền lực và vị trí của mình được đảm bảo. 
Hệ thống chính trị hướng đến
Điểm khác biệt thứ tư là khác biệt ở hệ thống chính trị nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền xây dựng lên. 
Để thực hiện được công việc lãnh đạo của mình, một trong những nền tảng bắt buộc nhà lãnh đạo phải có, đó là sự chính trực vẹn toàn trong công việc và lời nói của mình. 
Lý tưởng của nhà lãnh đạo, ước mơ hay khát vọng của họ, không ai có thể truy nhập trực tiếp được. Nhưng người dân sẽ biết được gián tiếp những điều đó thông qua lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo. Và quan trọng hơn, người dân có thể giám sát được những điều đó, để từ đó tin tưởng và ban trao sự lãnh đạo. Chỉ khi được ban trao sự lãnh đạo, trong tin tưởng và tự nguyện, thì nhà lãnh đạo mới có thể hành xử công việc lãnh đạo của mình. Và cũng chỉ khi đó, các dự án lãnh đạo mới có thể thành việc. 
Sự chính trực vẹn toàn này sẽ không chỉ dừng ở trong lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo, mà phải được mở rộng ra cả hệ thống mà người đó thiết kế và vận hành, và thể hiện ra thành sự minh bạch. Một hệ thống chính trực là một hệ thống minh bạch. Chính vì vậy, nhà lãnh đạo bao giờ cũng hướng đến việc xây dựng một hệ thống minh bạch, còn nhà cầm quyền thì không. Vì với nhà cầm quyền, quyền lực đến được không qua sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không quan tâm đến sự tin tưởng của người dân, mà tập trung vào tuân thủ và đàn áp. 
Để công việc lãnh đạo được thành công, nhà lãnh đạo bắt buộc phải thuyết phục được toàn dân tham gia, và huy động được mọi nguồn lực của người dân, để hiện thực hóa các dự án lãnh đạo của mình, hay rộng hơn là toàn bộ tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra. Để làm được điều này, yêu cầu tiên quyết là toàn dân phải có cơ hội được tham gia ngay từ những khâu đầu tiên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện của mình. 
Muốn vậy, nhà lãnh đạo phải có thêm một nền tảng cốt yếu khác, là bao dung hội hợp. Chỉ khi có được sự bao dung hội hợp thì nhà lãnh đạo mới có thể thu hút được đủ người tài, và có được đủ sự ủng hộ của toàn dân để hiện thực hóa các chương trình lãnh đạo của mình.
Với hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam, khi chiến tranh xảy ra liên miên, chia cắt lòng người còn nặng nề, thì bao dung hội hợp lại càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của đất nước. 
Sự bao dung hội hợp này, cũng tương tự như chính trực vẹn toàn, phải được mở rộng ra cả hệ thống chính trị mà nhà lãnh đạo xây dựng lên. 
Vậy đâu là một hệ thống có khả năng bao dung hội hợp với mọi người dân? Rõ ràng, đó chỉ có thể là một hệ thống dân chủ. Vì hệ thống dân chủ cho phép mọi người dân đều có cơ hội được tham gia và đóng góp, được bày tỏ chính kiến của mình trong việc phát triển đất nước. Còn một hệ thống độc tài sẽ không có khả năng làm được việc này. 
Và trở lại cách thức đạt được quyền lực rằng, nhà lãnh đạo sẽ đạt được quyền lực thông qua sự ban trao, mà cụ thể là một cuộc bầu cử dân chủ và minh bạch, còn nhà cầm quyền sẽ đạt được quyền lực thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, sẽ thấy rằng nhà lãnh đạo sẽ hướng đến việc xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ, không chỉ vì một hệ thống như vậy sẽ mang lại tính chính danh cho quyền lực và vị trí mà họ đang nắm giữ, mà nó còn là một công cụ đắc lực để họ huy động mọi người lực trong việc hiện thực hóa các chương trình lãnh đọa của mình. Còn nhà cầm quyền sẽ lảng tránh việc này, vì nó đe dọa trực tiếp đến quyền lực và vị trí mà họ đang có được thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt. 
Vậy nên, nhìn vào hệ thống chính trị đang được xây dựng, có thể biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền. 
Sứ mệnh cá nhân
Điểm khác biệt thứ năm là sứ mệnh cá nhân mà nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền tự đặt ra cho mình.
Nhà lãnh đạo, xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực và bản chất công việc của mình, thường tự đặt ra một sứ mệnh cá nhân lớn lơn mối quan tâm của bản thân, gia đình hoặc phe nhóm mình, tức gắn liền sứ mệnh cá nhân của mình với tương lai của cộng đồng mình dẫn dắt. Vì sao vậy? Vì chỉ thông qua cách đó, nhà lãnh đạo mới có được sự tin tưởng và ban trao sứ mệnh lạo của người dân. Và cũng chỉ bằng cách đó, nhà lãnh đạo mới có thể thuyết phục người dân tin vào tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra, và cùng hợp tác với nhà lãnh đạo để hiện thực hóa tương lai đó. Nếu sứ mệnh của nhà lãnh đạo chỉ đơn thuần là để vinh thân phì gia, hoặc chỉ nhằm mang lại lợi ích cho phe nhóm mình, thì không có cách nào thuyết phục được người dân tin tưởng để ban trao sự lãnh đạo. Đó là lý do vì sao trong các cuộc bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo tương lai luôn phải truyền thông và trình bày về chương trình hành động của mình, để thông qua đó người dân thấy và đánh giá được tương lai mà nhà lãnh đạo dự kiến sẽ tạo ra có đáng thuyết phục, sứ mệnh của nhà lãnh đạo có gắn với mệnh vận mệnh của dân tộc hay không. Chính vì lẽ đó, một nhà lãnh đạo đích thực luôn mang trong mình một sứ mệnh cá nhân lớn lao, và luốn hướng đến việc trở thành và hành động bởi những điều lớn hơn bản thân, gia đình hay phe nhóm của mình. 
Nhà cầm quyền thì ngược lại. Do cách thức đạt được quyền lực thông qua kế truyền, sắp xếp hoặc chiếm đoạt, và bản chất của công việc cầm quyền là tìm mọi cách để hợp thức hóa và duy trì quyền lực đã có, sứ mệnh của nhà cầm quyền thường chỉ giới hạn trong việc duy trì và trục lợi từ quyền lực đang có, cho cá nhân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Nhà cầm quyền không quan tâm đến việc mình có được người dân tin tưởng ban trao cho sự lãnh đạo hay không, nên không có động lực đặt ra những sứ mệnh cá nhân lớn hơn bản thân mình, và xông pha gánh vác những công việc khó khăn liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc. Trong hầu hết các trường hợp, nhà cầm quyền sẵn sàng hy sinh lợi ích của dân tộc để đánh đổi lấy lợi ích cá nhân. Lịch sử khắp nơi đã cho thấy, nhiều nhà cầm quyền sẵn sàng đánh đổi chủ quyền hoặc đẩy dân tộc đến bước tồn vong chỉ để duy trì sự cầm quyền hoặc bảo vệ lợi ích của cá nhân mình. Thậm chí, họ sẵn sàng mua bán đổi trác lợi ích của dân tộc chỉ để thỏa mãn hưởng thụ cá nhân, nhiều khi chỉ tính bằng một vài cuộc ăn chơi trác táng. Đó là lý do vì sao ở những nước dân chủ, đạo đức cá nhân hay cách thức sử dụng tài sản công lại là vấn đề quan trọng và nhạy cảm với nhà lãnh đạo. Nhiều người đã phải từ chức vì những vụ việc cá nhân cỏn con như vậy. Nhưng dưới con mắt của người dân thì vấn đề không hề cỏn con chút nào, bởi qua đó, người dân sẽ nhận ra sứ mệnh trong công việc mà anh đang thực thi, và nhận diện ra anh là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền. Nếu đó là nhà cầm quyền, người dân sẽ thu hồi lại sự lãnh đạo mà họ đã ban trao, trước hết thông qua công luận, sau là qua các thủ tục pháp lý nếu cần, vì thế nhà lãnh đạo không còn cách nào khác là phải từ chức. 
Tâm thế hành xử
Điểm khác biệt thứ sáu là khác biệt trong tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực, và bản chất của công việc lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau, nên tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền cũng khác nhau.  Nếu như nhà lãnh đạo dám nhìn thẳng vào hiện tại, đối mặt với hiện tại theo cách nó đúng là như vậy, để từ đó tìm ra sự thật và các cơ hội, các điều kiện tốt nhất để hiện thực hóa tương lai mà họ thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ thường nhìn hiện tại qua lăng kính bảo vệ quyền lực, vì thế thường thấy hiện tại như một sự đe dọa, do đó thường chỉ nhìn ra các thế lực thù địch, nguy cơ và sự bất an. Vì lẽ đó, nếu nhà lãnh đạo luôn là người có tâm thế chủ động khi đối mặt với hiện tại, theo nghĩa luôn chủ động tìm ra sự thật và kết nối các sự thật, tổ chức các nguồn lực hiện có của hiện tại để hiện thực hóa tương lai mà họ đã thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ luôn ở trong tâm thế bị động trước hiện tại, khi luôn coi hiện tại là một mối đe dọa cần xử lý, thậm chí ngay cả khi anh ta chủ động xử lý hiện tại như xử lý một mối đe dọa thì trên thực tế đó vẫn là một sự bị động vì hiện tại đang diễn biến theo hướng buộc anh ta phải làm như vậy.
Chính vì thế, nhìn phong thái hành xử của những người đứng đầu của tổ chức, và rộng hơn là của đất nước, trước những diễn biến của hiện tại, chúng ta sẽ biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền. 
Hiển nhiên, một người chủ động là một người có khả năng tạo ra sự thay đổi và làm chủ sự thay đổi đó. Đó là một người có quyền lực thực sự. Còn một người bị động thì muốn hay không anh ta vẫn chỉ là nạn nhân của sự thay đổi. Đó là một người không có quyền lực thực sự, dù trên thực tế anh ta có đủ quyền uy và chức vị để hành xử như một người có quyền lực. Điều này cũng dễ hiểu khi ta trở lại cách thức đạt được quyền lực của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền, và thấy rằng, quyền lực thực sự chỉ có được khi nó được ban trao trong sự tin tưởng và tự nguyện, còn quyền uy có thể đạt được thông qua sắp xếp hoặc cưỡng đoạt. 
Nói cách khác, nhà lãnh đạo có được quyền lực thông qua sự ban trao, trong tự do và tin tưởng. Còn nhà cầm quyền có được quyền uy thông qua sự sắp xếp và chiếm đoạt, trong mưu mô và đe dọa. 
Chuyển hóa cầm quyền – lãnh đạo
Cần lưu ý là có tồn tại sự chuyển hóa qua lại giữa lãnh đạo và cầm quyền. Nếu như trong quá khứ, một người hoặc nhóm người đã từng là nhà lãnh đạo vì họ được người dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo, do họ đã tạo ra được một tương lai chung đáp ứng được mối quan tâm của tất cả mọi người, họ thuyết phục mọi người tin theo và bản thân  họ là người nỗ lực hiện thực hóa tương lai đó, mà thường gặp nhất là lãnh đạo của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thì rất có thể sau đó khi sứ mệnh ban đầu đã hoàn tất, họ sẽ không còn là nhà lãnh đạo nữa, mà đã chuyển hóa thành nhà cầm quyền khi chỉ tập trung vào việc duy trì quyền lực của mình, và dùng hào quang của quá khứ để hợp thức hóa sự cầm quyền đó, trong khi tương lai mà họ hướng đến chỉ nhằm đáp ứng mối quan tâm của chính họ và một nhóm người có lợi ích liên quan chứ không phải là một tương lai chung đáp ứng mối quan tâm của tất cả mọi người. Trong trường hợp ấy, người đó hoặc nhóm người đó đích thị là một nhà cầm quyền, chứ không phải nhà lãnh đạo. 
Ngược lại, một nhà cầm quyền khi chuyển đổi công việc của mình từ việc tìm mọi cách bảo vệ quyền lực và lợi ích của mình hiện thời, sang thiết kế một tương lai chung cho toàn dân tộc, thuyết phục toàn dân tin vào tương lai đó và nỗ lực hiện thực hóa nó thì nhà cầm quyền khi đó đã chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo. Trong nhiều trường hợp, tuy sự chuyển hóa này không đủ rõ ràng về hình thức, và nhà cầm quyền tuy vẫn mang danh là nhà cầm quyền, thậm chí mang danh độc tài, thì về nội dung, người đó đã tự chuyển hóa để trở thành nhà lãnh đạo, vì công việc người đó thực hiện và sứ mệnh mà người đó gánh vác là công việc và sứ mệnh của nhà lãnh đạo, cho dù cách thức đến với công việc và sứ mệnh đó không được chính danh thông qua sự ban trao của người dân. Tuy nhiên, lịch sử sẽ công bằng nhìn ra người đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền, và sẽ ghi nhận đầy đủ những gì mà người đó đóng góp. 
Với Việt Nam, câu chuyện về lãnh đạo và cầm quyền là câu chuyện thời sự. Chúng ta đã từng có nhà lãnh đạo, nhưng chưa bao giờ chúng ta thiếu các nhà lãnh đạo như hiện giờ. Nhìn đâu cũng chỉ thấy nhà cầm quyền, ở mọi cấp độ. Câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có tiếp tục cần các nhà cầm quyền? Hiển nhiên là không, chúng ta cần các nhà lãnh đạo chứ không cần các nhà cầm quyền. Nhưng bằng cách nào để có được các nhà lãnh đạo, và làm sao để tạo ra một môi trường để cho nhà lãnh đạo xuất hiện và thực hiện công việc của mình?
Câu trả lời xin bỏ ngỏ cho những ai đang suy tư và hành động để thúc đẩy sự phát triển đất nước, và đặc biệt cho những người trong cuộc chuyển giao quyền lực đang diễn ra những ngày đầu năm 2016 này.

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016



LÃNH ĐẠO VÀ CẦM QUYỀN



dạy Sử, yêu nước, chính sử, dã sử
TS Giáp Văn Dương. Ảnh: Lê Anh Dũng

Trong những năm học tập và làm việc ở nước ngoài, một trong những điều tôi luôn lưu ý tìm hiểu là: Vì sao họ lại phát triển, còn mình thì không?
Tôi nhận ra rằng, thoạt nhìn thì câu trả lời có thể là do thể chế, hoặc do văn hóa, hoặc do những đặc thù về vị trí địa lý. Nhưng khi suy nghĩ kỹ hơn thì thấy rằng, phía sau tất cả các yếu tố này, bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của nhà lãnh đạo xuất sắc. Có thể nhà lãnh đạo chính là người tạo ra các yếu tố này, hoặc chính là người đã khai thác hiệu quả các yếu tố này, để dẫn dắt sự phát triển của dân tộc họ. Ngay cả khi không có một nhà lãnh đạo xuất sắc hiện diện ở ngay trong hiện tại, thì thể chế ưu việt và nền văn hóa tích cực do những nhà lãnh đạo tiền bối của họ kiến tạo ra vẫn đang đóng vai trò dẫn dắt. Khi đó, chính những nhà lãnh đạo quá cố đó, vẫn đang tiếp tục lãnh đạo gián tiếp đất nước của họ thông qua các di sản về thể chế và văn hóa mà họ đã gây dựng.
Như vậy để thấy, lãnh đạo chính là yếu tố mang tính quyết định đến sự phát triển của một tổ chức, và rộng hơn là của cả một dân tộc. Đặc biệt là trong các thời khắc khó khăn thì vai trò của nhà lãnh đạo lại càng lớn, do phải đương đầu với những tình huống chưa từng gặp qua và đòi hỏi phải ra được những quyết định chính xác mang tính sống còn. Vì thế có thể nói, giới hạn của nhà lãnh đạo chính là giới hạn phát triển của tổ chức mà người đó lãnh đạo, và giới hạn phát triển của một dân tộc, cũng bị quy định bởi chính giới hạn của những người đang lãnh đạo dân tộc đó. Nói cách khác, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển hoặc kìm hãm đất nước. Lựa chọn lãnh đạo đất nước chính là lựa chọn vận mệnh của cả dân tộc.
Trong một thế giới nhiều biến động, vai trò của nhà lãnh đạo lại càng nổi bật và trở nên quan trọng. Vì vai trò của nhà lãnh đạo là để chèo lái quốc gia trong những hoàn cảnh khó khăn hoặc bất định hoặc đòi hỏi sự bứt phá. Nếu không có khó khăn, không có bất định, hoặc không đòi hỏi sự bứt phá thì khi đó chỉ cần một nhà quản lý có năng lực để đảm bảo mọi việc diễn ra theo cách bình thường, chứ không cần đến một nhà lãnh đạo đích thực. Vì nhà quản lý sẽ tập trung vào việc thực hiện các kế hoạch đã đặt ra, còn nhà lãnh đạo sẽ thiết kế và hiện thực hóa một tương lai hoàn toàn mới, một sự phát triển mang tính bứt phá, hoặc một chuyển hướng mang tính chiến lược có ảnh hưởng tốt đẹp cho nhiều thế hệ kế tiếp.
Vì quan trọng như vậy, nên lãnh đạo bao giờ cũng là một quan tâm của mọi giới trong xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở mọi nước trên thế giới. Với hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, thì chất lượng lãnh đạo lại càng quan trọng, khi phần lớn người dân Việt Nam không được trực tiếp lựa chọn lãnh đạo tối cao của mình.
Thực tế phát triển của các quốc gia cho thấy, đất nước nào lãnh đạo anh minh thì dân tộc đó cất cánh chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có thể chứng nghiệm trong một đời người, mà Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore là những ví dụ nhãn tiền, còn dân tộc nào có lãnh đạo u mê thì dân tộc đó chìm trong nghèo hèn hàng thế kỷ, không biết khi nào mới ngóc đầu lên được, thậm chí, ngay sự tồn tại của mình cũng không chắc được đảm bảo.
Từ trong sâu thẳm, nhà lãnh đạo bao giờ cũng mang trong mình những sứ mệnh lớn hơn bản thân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Đó có thể là sứ mệnh giải phóng dân tộc, hoặc tạo ra một sự phát triển vượt bậc cho dân tộc, hoặc giải phóng con người ra khỏi u mê giáo điều. Chính sứ mệnh lớn lao đó chứ không phải những kiến thức chuyên môn, hoặc bè phái cấu kết, làm lên tầm vóc của nhà lãnh đạo, và tạo ra sự phát triển cho cả dân tộc mà họ lãnh đạo.
Vậy nên, muốn phát triển, dù là một tổ chức hay một đất nước, thì điều kiện tiên quyết là tổ chức hoặc đất nước đó phải lựa chọn được một nhà lãnh đạo tối cao xuất chúng. Đó phải là một nhà lãnh đạo đích thực, chứ không phải là một nhà cầm quyền, dù về mặt hình thức, lãnh đạo và cầm quyền có nhiều nét tương đồng.
Chính nhà lãnh đạo đó sẽ là người thiết kế ra những tương lai mới, và thuyết phục được toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, để sau đó huy động toàn lực để hiện thực hóa tương lai đó. Thông qua đó, nhà lãnh đạo nhận được sự tin tưởng, và bản thân sự lãnh đạo, như một sự ban trao từ phía người dân. Nếu người được bầu chọn không có khả năng thiết kế ra một tương lai như vậy, và không có khả năng thuyết phục toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, và không thể tập hợp được đủ người tài và nguồn lực để hiện thực hóa tương lai đó, thì đó là một sự lựa chọn nhầm lẫn. Trong trường hợp đó, cùng lắm chúng ta cũng chỉ có một nhà cầm quyền, chứ không phải là một nhà lãnh đạo.
Lưu ý rằng, sự lãnh đạo và sự tin tưởng đích thực, bản thân nó không tự xuất hiện với nhà lãnh đạo, cũng không thể giành giật được, mà chỉ có thể có được thông qua sự ban trao từ phía những người được lãnh đạo. Nếu không được ban trao, sự lãnh đạo chỉ có thể gọi tên là sự tiếm quyền. Vì thế, nhà lãnh đạo chỉ xuất hiện khi việc bầu cử được diễn ra trong dân chủ, công khai và minh bạch.
Giờ vừa sang năm 2016, Việt Nam dự kiến sẽ sớm hội nhập sâu rộng với thế giới sau khi hiệp định TTP được ký kết. Nhu cầu phát triển bứt phá của Việt Nam cũng đang là yêu cầu bức thiết, khi chỉ còn khoảng 10 năm nữa thôi là thời kỳ dân số vàng để phát triển sẽ qua đi và bẫy thu nhập trung bình thì đang giăng ra trước mắt. Trong hoàn cảnh đó, một nhà lãnh đạo đích thực là điều mà Việt Nam cần nhất.
Nhưng nhìn quanh thấy thời khắc chuyển giao lãnh đạo đang diễn ra rầm rộ, mà câu chuyện về lãnh đạo vẫn chưa được bàn thảo đầy đủ. Ngoài việc bàn tán ai đi ai ở, với hàm ý ai sẽ nắm quyền lực, thì câu hỏi cơ bản: lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác với cầm quyền như thế nào, lại không thấy ai bàn.
Vậy tại sao lại không đi thẳng vào câu hỏi này: Lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác cầm quyền ở điểm nào?
Khi đã chọn nhìn thẳng vào những câu hỏi căn cốt như thế, thì cách hiểu về lãnh đạo và lựa chọn lãnh đạo cũng sẽ khác đi. Ai đi ai ở không phải là quan trọng nhất, mà ai xứng đáng là lãnh đạo và làm sao để có được người xứng đáng đó mới là điều cốt yếu.
Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ chỉ một điểm này. Những nội dung khác, sẽ bàn trong các dịp thuận tiện khác.
Trước hết cần lưu ý, vì lãnh đạo thường gắn liền với quyền lực và chức vị, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, nên khi nói đến lãnh đạo, người ta sẽ liên hệ ngay đến chức vị và quyền lực. Do đó, lãnh đạo thường bị đồng nhất với cầm quyền. Nhưng lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau về bản chất. Nhà lãnh đạo không nhất thiết phải có chức vị và phải cầm quyền, còn người cầm quyền, dù có cả chức vị đi theo, cũng chưa chắc đã là nhà lãnh đạo. Chính sự nhầm lẫn về lãnh đạo và cầm quyền đã gây ra những cuộc đua nắm giữ quyền lực không phải cách, dẫn đến việc tạo ra các nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì các nhà lãnh đạo đích thực. Và quyền lực trong trường hợp này trở thành mục tiêu của nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì là công cụ của của nhà lãnh đạo đích thực.
Vậy sự khác biệt đó là gì?

Cách thức đạt được quyền lực

Điểm khác biệt đầu tiên là khác biệt trong cách thức đến với quyền lực. Đây là điểm khác biệt mấu chốt, dẫn đến các cách hành xử khác nhau của nhà lãnh đạo đích thực và nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo. Với nhà lãnh đạo chính trị, quyền lực và rộng hơn là sự lãnh đạo, phải được ban trao từ phía người dân trong sự tin tưởng và tự nguyện. Còn với nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo, quyền lực này có thể đến được thông qua sắp đặt hoặc chiếm đoạt.
Vì sự lãnh đạo là được ban trao từ phía người dân, nên khi thấy nhà lãnh đạo không đáp ứng được kỳ vọng của mình, người dân có quyền và có cơ chế để lấy lại sự ban trao này. Vì thế, lãnh đạo bao giờ cũng gắn liền với nhiệm kỳ. Còn cầm quyền thì ngược lại, quyền lực đến với nhà cầm quyền không bởi sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, nên về bản chất là không có nhiệm kỳ, và nhân dân bị ngăn cản để lấy lại quyền lực lẽ ra sẽ thuộc về nhà lãnh đạo do nhân dân lựa chọn. Vì lẽ đó, với nhà lãnh đạo thì quyền lực chỉ là một phương tiện để thực hiện công việc lãnh đạo của mình. Còn với nhà cầm quyền, quyền lực trở thành mục đích.
Lưu ý rằng, sự ban trao lãnh đạo này chỉ có thể được thực hiện thông qua bầu cử dân chủ và minh bạch. Điều đó có nghĩa, bầu cử để lựa chọn nhà lãnh đạo là quan trọng, nhưng cách thức bầu cử còn quan trọng hơn. Chỉ thông qua bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo mới được ban trao quyền lực. Còn bất kỳ hình thức ban trao nào khác, dù nhân danh bất cứ điều gì hoặc bất cứ giá trị nào, như dòng dõi của các hoàng gia, hay đức tin của các tôn giáo, hay đề cử riêng của các đảng phái, hay bất cứ một nhân danh nào khác ngoài lá phiếu của người dân, thì đó không phải là một sự ban trao đích thực, mà thực chất là một sự sắp xếp. Lãnh đạo có được thông qua sắp xếp, dù theo chủ ý nhất thời của một thế lực nào đó, hoặc là sự mở rộng tự nhiên của truyền thống, thì cùng lắm cũng chỉ có thể là nhà cầm quyền. Còn nếu không thì sẽ rơi vào trạng thái bù nhìn cho các thế lực hậu trường giật dây.
Đó là lý do vì sao ở các quốc gia quân chủ lập hiến, khi ngôi vua được kế thừa theo kiểu cha truyền con nối, thì ngôi vua đó chỉ có giá trị biểu trưng về mặt văn hóa và truyền thống, đóng vai trò như một kết nối trong khối đoàn kết của toàn dân, còn nhà lãnh đạo thực sự đang dẫn dắt quốc gia đó vẫn phải được bầu theo nhiệm kỳ để thông qua đó, nhà lãnh đạo được ban trao quyền lực.
Bản chất công việc lãnh đạo
Điểm khác biệt thứ hai là khác biệt trong công việc thực sự của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Với nhà lãnh đạo, công việc của anh ta là thiết kế một tương lai chung cho tất cả mọi người, thuyết phục được mọi người tin tưởng vào tương lai đó, và cuối cùng là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó. Anh ta được ban trao quyền lực, và rộng hơn là ban trao sự lãnh đạo, để thực hiện công việc thiết kế tương lai và hiện thực hóa tương lai này. Thiết kế tương lai chung, trước hết dưới dạng các viễn cảnh được mô tả rõ ràng và thuyết phục, và sau đó là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó, là công việc chủ chốt của nhà lãnh đạo.
Nhưng với nhà cầm quyền, vì quyền lực và vị trí của họ không đến thông qua sự ban trao tự nguyện của người dân, công việc của nhà cầm quyền sẽ chỉ tập trung vào việc giữ cho bằng được quyền lực và vị trí của mình. Họ sẽ tìm mọi cách hợp thức hóa việc nắm giữ quyền lực và vị trí này, thông qua mọi phương tiện, không chỉ tuyên truyền mà còn cả đe dọa và đàn áp.
Ngay cả khi nhà cầm quyền chủ ý thiết kế và hiện thực hóa một tương lai nào đó, thì tương lai này vẫn sẽ bị giới hạn bởi điều kiện tiên quyết là không ảnh hưởng đến quyền lực và vị trí anh ta đang nắm giữ. Vì thế, tương lai đó không bao giờ là tương lai tốt nhất có thể có, và chỉ có thể đáp ứng được mối quan tâm của một nhóm người có lợi ích liên quan, chứ không phải của tất cả mọi người, trừ phi nhà cầm quyền tự chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo.
Miền thời gian lưu trú
Điểm khác biệt thứ ba là miền thời gian mà nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền đến sống và làm việc ở trong đó. Với nhà lãnh đạo, miền thời gian mà họ sống và làm việc là tương lai của chính dân tộc họ, và họ phải là hiện thân của chính tương lai đó. Vì thế, họ phải là người có tầm nhìn, phải có khả năng nhìn thấy tương lai, từ đó thiết kế ra một tương lai tốt hơn cho tất cả mọi người và tạo động lực để tất cả mọi người cùng hiện thực hóa tương lai đó. Nhà lãnh đạo tìm thấy bản thân mình và tính chính danh trong công việc của mình ở trong tương lai. Nhưng tương lai bao giờ cũng bất định, vì lẽ đó, nhà lãnh đạo đòi hỏi không chỉ giỏi về chuyên môn, mà quan trọng trước hết là bản lĩnh dám đối mặt với sự thay đổi, dám ra những quyết sách lớn và dám chịu trách nhiệm với những quyết sách lớn đó. Nhưng các nội dung này lại phải đặt trong bối cảnh của sự ban trao quyền lãnh đạo từ phía người dân, nên nhà lãnh đạo trước hết phải có đạo đức để tạo ra sự tin tưởng, và khả năng tập hợp người tài để sau khi đã thiết kế ra một tương lai chung, thì còn phải hiện thực hóa tương lai đó.
Còn nhà cầm quyền thì ngược lại, họ sẽ thường trú ngụ trong quá khứ, vì chỉ trong quá khứ, nơi các sự kiện đã xảy ra, họ mới tìm ra được các lý do để biện minh cho sự tồn tại của mình ở trong hiện tại, theo nghĩa hiện tại là sự nối dài của quá khứ. Còn trong tương lai, các sự kiện chưa xảy ra, nên dù có muốn, họ cũng không thể sử dụng. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không cần bản lĩnh đương đầu với một tương lai bất định, mà chỉ cần nhiều mưu mô để bày binh bố trận, sắp xếp quá khứ và hiện tại sao cho có lợi nhất cho mình. Nhà cầm quyền cũng sẽ không cần người tài để hiện thực hóa một tương lai đã được thiết kế, mà cần trước hết các bè phái hoặc nhóm lợi ích thân tín để bảo vệ lẫn nhau và duy trì quyền lực cũng như vị trí hiện thời.
Trong nhiều trường hợp, nếu nhà cầm quyền cũng quan tâm đến tương lai và thiết kế ra một tương lai mới, thì phải xét xem tương lai đó đáp ứng được lợi ích chính của nhóm đối tượng nào. Nếu tương lai đó chỉ phục vụ cho lợi ích của một nhóm, nhưng nhân danh cả dân tộc, thì đó là một thủ thuật của nhà cầm quyền, còn nếu tương lai đó đáp ứng lợi ích chung của toàn dân, thì trong trường hợp đó, nhà cầm quyền đã tự chuyển hóa thành nhà lãnh đạo.
Như vậy có thể thấy, nhà lãnh đạo là người sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến tương lai, còn nhà cầm quyền sẽ sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến quá khứ. Vậy nên, khi nghe các ứng viên thuyết trình, nếu họ nói về tương lai và về chương trình hành động để hiện thực hóa tương lai đó, và thuyết phục người dân tin tưởng vào tương lai đó và đồng lòng hiện thực hóa nó, ta biết đó là nhà lãnh đạo. Còn nếu ứng viên nói về quá khứ, và dùng quá khứ như một sự đảm bảo cho tính chính đáng của mình, thì ta biết đó là nhà cầm quyền.
Một cách logic, chỉ người sống trong tương lai mới có thể đưa toàn dân đi đến tương lai. Sự phát triển đột phá sẽ chỉ xảy đến trong trường hợp này. Còn người sống trong quá khứ, sẽ muốn toàn dân trú ngụ ở trong quá khứ, đặc biệt là quá khứ có chút hào quang. Tuy nhiên, thời gian không ngừng trôi, tương lai không thể tránh, nên tương lai trong trường hợp của nhà cầm quyền sẽ là chỉ đơn thuần là sự mở rộng của quá khứ. Nó chỉ đơn thuần là sự tịnh tiến trong thời gian của quá khứ. Mọi sự đều có thể đoán biết trước mà không có sự phát triển đột phá nào có thể đến. Đó chính là lý do vì sao các thể chế phong kiến có thể kéo dài hàng nghìn năm mà sự phát triển cứ như giậm chân tại chỗ. Vì họ chỉ sống trong quá khứ, luôn lấy quá khứ làm chuẩn mực, nên không vượt qua được quá khứ của mình. Mà đã không vượt qua được quá khứ của mình thì thời gian trôi họ cũng sẽ chỉ giậm chân tại chỗ mà thôi.
Nếu giậm chân tại chỗ có thể là mục đích của nhà cầm quyền, thì đó là điều không nhà lãnh đạo nào mong muốn. Vì khi để dân tộc giậm châm tại chỗ, trong khi các dân tộc khác vẫn không ngừng mải miết tiến lên, nhà lãnh đạo đã không hoàn thành sứ mệnh của mình, vì thế sự lãnh đạo mà họ đã được ban trao sẽ bị nhân dân lấy lại. Còn nhà cầm quyền thường tìm cách kiểm soát xã hội để ngăn chặn nguy cơ này, nên họ có thể hài lòng với trạng thái giậm chân tại chỗ này, miễn sao quyền lực và vị trí của mình được đảm bảo.
Hệ thống chính trị hướng đến
Điểm khác biệt thứ tư là khác biệt ở hệ thống chính trị nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền xây dựng lên.
Để thực hiện được công việc lãnh đạo của mình, một trong những nền tảng bắt buộc nhà lãnh đạo phải có, đó là sự chính trực vẹn toàn trong công việc và lời nói của mình.
Lý tưởng của nhà lãnh đạo, ước mơ hay khát vọng của họ, không ai có thể truy nhập trực tiếp được. Nhưng người dân sẽ biết được gián tiếp những điều đó thông qua lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo. Và quan trọng hơn, người dân có thể giám sát được những điều đó, để từ đó tin tưởng và ban trao sự lãnh đạo. Chỉ khi được ban trao sự lãnh đạo, trong tin tưởng và tự nguyện, thì nhà lãnh đạo mới có thể hành xử công việc lãnh đạo của mình. Và cũng chỉ khi đó, các dự án lãnh đạo mới có thể thành việc.
Sự chính trực vẹn toàn này sẽ không chỉ dừng ở trong lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo, mà phải được mở rộng ra cả hệ thống mà người đó thiết kế và vận hành, và thể hiện ra thành sự minh bạch. Một hệ thống chính trực là một hệ thống minh bạch. Chính vì vậy, nhà lãnh đạo bao giờ cũng hướng đến việc xây dựng một hệ thống minh bạch, còn nhà cầm quyền thì không. Vì với nhà cầm quyền, quyền lực đến được không qua sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không quan tâm đến sự tin tưởng của người dân, mà tập trung vào tuân thủ và đàn áp.
Để công việc lãnh đạo được thành công, nhà lãnh đạo bắt buộc phải thuyết phục được toàn dân tham gia, và huy động được mọi nguồn lực của người dân, để hiện thực hóa các dự án lãnh đạo của mình, hay rộng hơn là toàn bộ tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra. Để làm được điều này, yêu cầu tiên quyết là toàn dân phải có cơ hội được tham gia ngay từ những khâu đầu tiên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện của mình.
Muốn vậy, nhà lãnh đạo phải có thêm một nền tảng cốt yếu khác, là bao dung hội hợp. Chỉ khi có được sự bao dung hội hợp thì nhà lãnh đạo mới có thể thu hút được đủ người tài, và có được đủ sự ủng hộ của toàn dân để hiện thực hóa các chương trình lãnh đạo của mình.
Với hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam, khi chiến tranh xảy ra liên miên, chia cắt lòng người còn nặng nề, thì bao dung hội hợp lại càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
Sự bao dung hội hợp này, cũng tương tự như chính trực vẹn toàn, phải được mở rộng ra cả hệ thống chính trị mà nhà lãnh đạo xây dựng lên.
Vậy đâu là một hệ thống có khả năng bao dung hội hợp với mọi người dân? Rõ ràng, đó chỉ có thể là một hệ thống dân chủ. Vì hệ thống dân chủ cho phép mọi người dân đều có cơ hội được tham gia và đóng góp, được bày tỏ chính kiến của mình trong việc phát triển đất nước. Còn một hệ thống độc tài sẽ không có khả năng làm được việc này.
Và trở lại cách thức đạt được quyền lực rằng, nhà lãnh đạo sẽ đạt được quyền lực thông qua sự ban trao, mà cụ thể là một cuộc bầu cử dân chủ và minh bạch, còn nhà cầm quyền sẽ đạt được quyền lực thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, sẽ thấy rằng nhà lãnh đạo sẽ hướng đến việc xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ, không chỉ vì một hệ thống như vậy sẽ mang lại tính chính danh cho quyền lực và vị trí mà họ đang nắm giữ, mà nó còn là một công cụ đắc lực để họ huy động mọi người lực trong việc hiện thực hóa các chương trình lãnh đọa của mình. Còn nhà cầm quyền sẽ lảng tránh việc này, vì nó đe dọa trực tiếp đến quyền lực và vị trí mà họ đang có được thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt.
Vậy nên, nhìn vào hệ thống chính trị đang được xây dựng, có thể biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Sứ mệnh cá nhân
Điểm khác biệt thứ năm là sứ mệnh cá nhân mà nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền tự đặt ra cho mình.
Nhà lãnh đạo, xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực và bản chất công việc của mình, thường tự đặt ra một sứ mệnh cá nhân lớn lơn mối quan tâm của bản thân, gia đình hoặc phe nhóm mình, tức gắn liền sứ mệnh cá nhân của mình với tương lai của cộng đồng mình dẫn dắt. Vì sao vậy? Vì chỉ thông qua cách đó, nhà lãnh đạo mới có được sự tin tưởng và ban trao sứ mệnh lạo của người dân. Và cũng chỉ bằng cách đó, nhà lãnh đạo mới có thể thuyết phục người dân tin vào tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra, và cùng hợp tác với nhà lãnh đạo để hiện thực hóa tương lai đó. Nếu sứ mệnh của nhà lãnh đạo chỉ đơn thuần là để vinh thân phì gia, hoặc chỉ nhằm mang lại lợi ích cho phe nhóm mình, thì không có cách nào thuyết phục được người dân tin tưởng để ban trao sự lãnh đạo. Đó là lý do vì sao trong các cuộc bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo tương lai luôn phải truyền thông và trình bày về chương trình hành động của mình, để thông qua đó người dân thấy và đánh giá được tương lai mà nhà lãnh đạo dự kiến sẽ tạo ra có đáng thuyết phục, sứ mệnh của nhà lãnh đạo có gắn với mệnh vận mệnh của dân tộc hay không. Chính vì lẽ đó, một nhà lãnh đạo đích thực luôn mang trong mình một sứ mệnh cá nhân lớn lao, và luốn hướng đến việc trở thành và hành động bởi những điều lớn hơn bản thân, gia đình hay phe nhóm của mình.
Nhà cầm quyền thì ngược lại. Do cách thức đạt được quyền lực thông qua kế truyền, sắp xếp hoặc chiếm đoạt, và bản chất của công việc cầm quyền là tìm mọi cách để hợp thức hóa và duy trì quyền lực đã có, sứ mệnh của nhà cầm quyền thường chỉ giới hạn trong việc duy trì và trục lợi từ quyền lực đang có, cho cá nhân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Nhà cầm quyền không quan tâm đến việc mình có được người dân tin tưởng ban trao cho sự lãnh đạo hay không, nên không có động lực đặt ra những sứ mệnh cá nhân lớn hơn bản thân mình, và xông pha gánh vác những công việc khó khăn liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc. Trong hầu hết các trường hợp, nhà cầm quyền sẵn sàng hy sinh lợi ích của dân tộc để đánh đổi lấy lợi ích cá nhân. Lịch sử khắp nơi đã cho thấy, nhiều nhà cầm quyền sẵn sàng đánh đổi chủ quyền hoặc đẩy dân tộc đến bước tồn vong chỉ để duy trì sự cầm quyền hoặc bảo vệ lợi ích của cá nhân mình. Thậm chí, họ sẵn sàng mua bán đổi trác lợi ích của dân tộc chỉ để thỏa mãn hưởng thụ cá nhân, nhiều khi chỉ tính bằng một vài cuộc ăn chơi trác táng. Đó là lý do vì sao ở những nước dân chủ, đạo đức cá nhân hay cách thức sử dụng tài sản công lại là vấn đề quan trọng và nhạy cảm với nhà lãnh đạo. Nhiều người đã phải từ chức vì những vụ việc cá nhân cỏn con như vậy. Nhưng dưới con mắt của người dân thì vấn đề không hề cỏn con chút nào, bởi qua đó, người dân sẽ nhận ra sứ mệnh trong công việc mà anh đang thực thi, và nhận diện ra anh là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền. Nếu đó là nhà cầm quyền, người dân sẽ thu hồi lại sự lãnh đạo mà họ đã ban trao, trước hết thông qua công luận, sau là qua các thủ tục pháp lý nếu cần, vì thế nhà lãnh đạo không còn cách nào khác là phải từ chức.
Tâm thế hành xử
Điểm khác biệt thứ sáu là khác biệt trong tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực, và bản chất của công việc lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau, nên tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền cũng khác nhau. Nếu như nhà lãnh đạo dám nhìn thẳng vào hiện tại, đối mặt với hiện tại theo cách nó đúng là như vậy, để từ đó tìm ra sự thật và các cơ hội, các điều kiện tốt nhất để hiện thực hóa tương lai mà họ thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ thường nhìn hiện tại qua lăng kính bảo vệ quyền lực, vì thế thường thấy hiện tại như một sự đe dọa, do đó thường chỉ nhìn ra các thế lực thù địch, nguy cơ và sự bất an. Vì lẽ đó, nếu nhà lãnh đạo luôn là người có tâm thế chủ động khi đối mặt với hiện tại, theo nghĩa luôn chủ động tìm ra sự thật và kết nối các sự thật, tổ chức các nguồn lực hiện có của hiện tại để hiện thực hóa tương lai mà họ đã thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ luôn ở trong tâm thế bị động trước hiện tại, khi luôn coi hiện tại là một mối đe dọa cần xử lý, thậm chí ngay cả khi anh ta chủ động xử lý hiện tại như xử lý một mối đe dọa thì trên thực tế đó vẫn là một sự bị động vì hiện tại đang diễn biến theo hướng buộc anh ta phải làm như vậy.
Chính vì thế, nhìn phong thái hành xử của những người đứng đầu của tổ chức, và rộng hơn là của đất nước, trước những diễn biến của hiện tại, chúng ta sẽ biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Hiển nhiên, một người chủ động là một người có khả năng tạo ra sự thay đổi và làm chủ sự thay đổi đó. Đó là một người có quyền lực thực sự. Còn một người bị động thì muốn hay không anh ta vẫn chỉ là nạn nhân của sự thay đổi. Đó là một người không có quyền lực thực sự, dù trên thực tế anh ta có đủ quyền uy và chức vị để hành xử như một người có quyền lực. Điều này cũng dễ hiểu khi ta trở lại cách thức đạt được quyền lực của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền, và thấy rằng, quyền lực thực sự chỉ có được khi nó được ban trao trong sự tin tưởng và tự nguyện, còn quyền uy có thể đạt được thông qua sắp xếp hoặc cưỡng đoạt.
Nói cách khác, nhà lãnh đạo có được quyền lực thông qua sự ban trao, trong tự do và tin tưởng. Còn nhà cầm quyền có được quyền uy thông qua sự sắp xếp và chiếm đoạt, trong mưu mô và đe dọa.
Chuyển hóa cầm quyền – lãnh đạo
Cần lưu ý là có tồn tại sự chuyển hóa qua lại giữa lãnh đạo và cầm quyền. Nếu như trong quá khứ, một người hoặc nhóm người đã từng là nhà lãnh đạo vì họ được người dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo, do họ đã tạo ra được một tương lai chung đáp ứng được mối quan tâm của tất cả mọi người, họ thuyết phục mọi người tin theo và bản thân họ là người nỗ lực hiện thực hóa tương lai đó, mà thường gặp nhất là lãnh đạo của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thì rất có thể sau đó khi sứ mệnh ban đầu đã hoàn tất, họ sẽ không còn là nhà lãnh đạo nữa, mà đã chuyển hóa thành nhà cầm quyền khi chỉ tập trung vào việc duy trì quyền lực của mình, và dùng hào quang của quá khứ để hợp thức hóa sự cầm quyền đó, trong khi tương lai mà họ hướng đến chỉ nhằm đáp ứng mối quan tâm của chính họ và một nhóm người có lợi ích liên quan chứ không phải là một tương lai chung đáp ứng mối quan tâm của tất cả mọi người. Trong trường hợp ấy, người đó hoặc nhóm người đó đích thị là một nhà cầm quyền, chứ không phải nhà lãnh đạo.
Ngược lại, một nhà cầm quyền khi chuyển đổi công việc của mình từ việc tìm mọi cách bảo vệ quyền lực và lợi ích của mình hiện thời, sang thiết kế một tương lai chung cho toàn dân tộc, thuyết phục toàn dân tin vào tương lai đó và nỗ lực hiện thực hóa nó thì nhà cầm quyền khi đó đã chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo. Trong nhiều trường hợp, tuy sự chuyển hóa này không đủ rõ ràng về hình thức, và nhà cầm quyền tuy vẫn mang danh là nhà cầm quyền, thậm chí mang danh độc tài, thì về nội dung, người đó đã tự chuyển hóa để trở thành nhà lãnh đạo, vì công việc người đó thực hiện và sứ mệnh mà người đó gánh vác là công việc và sứ mệnh của nhà lãnh đạo, cho dù cách thức đến với công việc và sứ mệnh đó không được chính danh thông qua sự ban trao của người dân. Tuy nhiên, lịch sử sẽ công bằng nhìn ra người đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền, và sẽ ghi nhận đầy đủ những gì mà người đó đóng góp.
Với Việt Nam, câu chuyện về lãnh đạo và cầm quyền là câu chuyện thời sự. Chúng ta đã từng có nhà lãnh đạo, nhưng chưa bao giờ chúng ta thiếu các nhà lãnh đạo như hiện giờ. Nhìn đâu cũng chỉ thấy nhà cầm quyền, ở mọi cấp độ. Câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có tiếp tục cần các nhà cầm quyền? Hiển nhiên là không, chúng ta cần các nhà lãnh đạo chứ không cần các nhà cầm quyền. Nhưng bằng cách nào để có được các nhà lãnh đạo, và làm sao để tạo ra một môi trường để cho nhà lãnh đạo xuất hiện và thực hiện công việc của mình?

Câu trả lời xin bỏ ngỏ cho những ai đang suy tư và hành động để thúc đẩy sự phát triển đất nước, và đặc biệt cho những người trong cuộc chuyển giao quyền lực đang diễn ra những ngày đầu năm 2016 này.