Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016



LÃNH ĐẠO VÀ CẦM QUYỀN



dạy Sử, yêu nước, chính sử, dã sử
TS Giáp Văn Dương. Ảnh: Lê Anh Dũng

Trong những năm học tập và làm việc ở nước ngoài, một trong những điều tôi luôn lưu ý tìm hiểu là: Vì sao họ lại phát triển, còn mình thì không?
Tôi nhận ra rằng, thoạt nhìn thì câu trả lời có thể là do thể chế, hoặc do văn hóa, hoặc do những đặc thù về vị trí địa lý. Nhưng khi suy nghĩ kỹ hơn thì thấy rằng, phía sau tất cả các yếu tố này, bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của nhà lãnh đạo xuất sắc. Có thể nhà lãnh đạo chính là người tạo ra các yếu tố này, hoặc chính là người đã khai thác hiệu quả các yếu tố này, để dẫn dắt sự phát triển của dân tộc họ. Ngay cả khi không có một nhà lãnh đạo xuất sắc hiện diện ở ngay trong hiện tại, thì thể chế ưu việt và nền văn hóa tích cực do những nhà lãnh đạo tiền bối của họ kiến tạo ra vẫn đang đóng vai trò dẫn dắt. Khi đó, chính những nhà lãnh đạo quá cố đó, vẫn đang tiếp tục lãnh đạo gián tiếp đất nước của họ thông qua các di sản về thể chế và văn hóa mà họ đã gây dựng.
Như vậy để thấy, lãnh đạo chính là yếu tố mang tính quyết định đến sự phát triển của một tổ chức, và rộng hơn là của cả một dân tộc. Đặc biệt là trong các thời khắc khó khăn thì vai trò của nhà lãnh đạo lại càng lớn, do phải đương đầu với những tình huống chưa từng gặp qua và đòi hỏi phải ra được những quyết định chính xác mang tính sống còn. Vì thế có thể nói, giới hạn của nhà lãnh đạo chính là giới hạn phát triển của tổ chức mà người đó lãnh đạo, và giới hạn phát triển của một dân tộc, cũng bị quy định bởi chính giới hạn của những người đang lãnh đạo dân tộc đó. Nói cách khác, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển hoặc kìm hãm đất nước. Lựa chọn lãnh đạo đất nước chính là lựa chọn vận mệnh của cả dân tộc.
Trong một thế giới nhiều biến động, vai trò của nhà lãnh đạo lại càng nổi bật và trở nên quan trọng. Vì vai trò của nhà lãnh đạo là để chèo lái quốc gia trong những hoàn cảnh khó khăn hoặc bất định hoặc đòi hỏi sự bứt phá. Nếu không có khó khăn, không có bất định, hoặc không đòi hỏi sự bứt phá thì khi đó chỉ cần một nhà quản lý có năng lực để đảm bảo mọi việc diễn ra theo cách bình thường, chứ không cần đến một nhà lãnh đạo đích thực. Vì nhà quản lý sẽ tập trung vào việc thực hiện các kế hoạch đã đặt ra, còn nhà lãnh đạo sẽ thiết kế và hiện thực hóa một tương lai hoàn toàn mới, một sự phát triển mang tính bứt phá, hoặc một chuyển hướng mang tính chiến lược có ảnh hưởng tốt đẹp cho nhiều thế hệ kế tiếp.
Vì quan trọng như vậy, nên lãnh đạo bao giờ cũng là một quan tâm của mọi giới trong xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở mọi nước trên thế giới. Với hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, thì chất lượng lãnh đạo lại càng quan trọng, khi phần lớn người dân Việt Nam không được trực tiếp lựa chọn lãnh đạo tối cao của mình.
Thực tế phát triển của các quốc gia cho thấy, đất nước nào lãnh đạo anh minh thì dân tộc đó cất cánh chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có thể chứng nghiệm trong một đời người, mà Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore là những ví dụ nhãn tiền, còn dân tộc nào có lãnh đạo u mê thì dân tộc đó chìm trong nghèo hèn hàng thế kỷ, không biết khi nào mới ngóc đầu lên được, thậm chí, ngay sự tồn tại của mình cũng không chắc được đảm bảo.
Từ trong sâu thẳm, nhà lãnh đạo bao giờ cũng mang trong mình những sứ mệnh lớn hơn bản thân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Đó có thể là sứ mệnh giải phóng dân tộc, hoặc tạo ra một sự phát triển vượt bậc cho dân tộc, hoặc giải phóng con người ra khỏi u mê giáo điều. Chính sứ mệnh lớn lao đó chứ không phải những kiến thức chuyên môn, hoặc bè phái cấu kết, làm lên tầm vóc của nhà lãnh đạo, và tạo ra sự phát triển cho cả dân tộc mà họ lãnh đạo.
Vậy nên, muốn phát triển, dù là một tổ chức hay một đất nước, thì điều kiện tiên quyết là tổ chức hoặc đất nước đó phải lựa chọn được một nhà lãnh đạo tối cao xuất chúng. Đó phải là một nhà lãnh đạo đích thực, chứ không phải là một nhà cầm quyền, dù về mặt hình thức, lãnh đạo và cầm quyền có nhiều nét tương đồng.
Chính nhà lãnh đạo đó sẽ là người thiết kế ra những tương lai mới, và thuyết phục được toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, để sau đó huy động toàn lực để hiện thực hóa tương lai đó. Thông qua đó, nhà lãnh đạo nhận được sự tin tưởng, và bản thân sự lãnh đạo, như một sự ban trao từ phía người dân. Nếu người được bầu chọn không có khả năng thiết kế ra một tương lai như vậy, và không có khả năng thuyết phục toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, và không thể tập hợp được đủ người tài và nguồn lực để hiện thực hóa tương lai đó, thì đó là một sự lựa chọn nhầm lẫn. Trong trường hợp đó, cùng lắm chúng ta cũng chỉ có một nhà cầm quyền, chứ không phải là một nhà lãnh đạo.
Lưu ý rằng, sự lãnh đạo và sự tin tưởng đích thực, bản thân nó không tự xuất hiện với nhà lãnh đạo, cũng không thể giành giật được, mà chỉ có thể có được thông qua sự ban trao từ phía những người được lãnh đạo. Nếu không được ban trao, sự lãnh đạo chỉ có thể gọi tên là sự tiếm quyền. Vì thế, nhà lãnh đạo chỉ xuất hiện khi việc bầu cử được diễn ra trong dân chủ, công khai và minh bạch.
Giờ vừa sang năm 2016, Việt Nam dự kiến sẽ sớm hội nhập sâu rộng với thế giới sau khi hiệp định TTP được ký kết. Nhu cầu phát triển bứt phá của Việt Nam cũng đang là yêu cầu bức thiết, khi chỉ còn khoảng 10 năm nữa thôi là thời kỳ dân số vàng để phát triển sẽ qua đi và bẫy thu nhập trung bình thì đang giăng ra trước mắt. Trong hoàn cảnh đó, một nhà lãnh đạo đích thực là điều mà Việt Nam cần nhất.
Nhưng nhìn quanh thấy thời khắc chuyển giao lãnh đạo đang diễn ra rầm rộ, mà câu chuyện về lãnh đạo vẫn chưa được bàn thảo đầy đủ. Ngoài việc bàn tán ai đi ai ở, với hàm ý ai sẽ nắm quyền lực, thì câu hỏi cơ bản: lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác với cầm quyền như thế nào, lại không thấy ai bàn.
Vậy tại sao lại không đi thẳng vào câu hỏi này: Lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác cầm quyền ở điểm nào?
Khi đã chọn nhìn thẳng vào những câu hỏi căn cốt như thế, thì cách hiểu về lãnh đạo và lựa chọn lãnh đạo cũng sẽ khác đi. Ai đi ai ở không phải là quan trọng nhất, mà ai xứng đáng là lãnh đạo và làm sao để có được người xứng đáng đó mới là điều cốt yếu.
Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ chỉ một điểm này. Những nội dung khác, sẽ bàn trong các dịp thuận tiện khác.
Trước hết cần lưu ý, vì lãnh đạo thường gắn liền với quyền lực và chức vị, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, nên khi nói đến lãnh đạo, người ta sẽ liên hệ ngay đến chức vị và quyền lực. Do đó, lãnh đạo thường bị đồng nhất với cầm quyền. Nhưng lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau về bản chất. Nhà lãnh đạo không nhất thiết phải có chức vị và phải cầm quyền, còn người cầm quyền, dù có cả chức vị đi theo, cũng chưa chắc đã là nhà lãnh đạo. Chính sự nhầm lẫn về lãnh đạo và cầm quyền đã gây ra những cuộc đua nắm giữ quyền lực không phải cách, dẫn đến việc tạo ra các nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì các nhà lãnh đạo đích thực. Và quyền lực trong trường hợp này trở thành mục tiêu của nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì là công cụ của của nhà lãnh đạo đích thực.
Vậy sự khác biệt đó là gì?

Cách thức đạt được quyền lực

Điểm khác biệt đầu tiên là khác biệt trong cách thức đến với quyền lực. Đây là điểm khác biệt mấu chốt, dẫn đến các cách hành xử khác nhau của nhà lãnh đạo đích thực và nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo. Với nhà lãnh đạo chính trị, quyền lực và rộng hơn là sự lãnh đạo, phải được ban trao từ phía người dân trong sự tin tưởng và tự nguyện. Còn với nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo, quyền lực này có thể đến được thông qua sắp đặt hoặc chiếm đoạt.
Vì sự lãnh đạo là được ban trao từ phía người dân, nên khi thấy nhà lãnh đạo không đáp ứng được kỳ vọng của mình, người dân có quyền và có cơ chế để lấy lại sự ban trao này. Vì thế, lãnh đạo bao giờ cũng gắn liền với nhiệm kỳ. Còn cầm quyền thì ngược lại, quyền lực đến với nhà cầm quyền không bởi sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, nên về bản chất là không có nhiệm kỳ, và nhân dân bị ngăn cản để lấy lại quyền lực lẽ ra sẽ thuộc về nhà lãnh đạo do nhân dân lựa chọn. Vì lẽ đó, với nhà lãnh đạo thì quyền lực chỉ là một phương tiện để thực hiện công việc lãnh đạo của mình. Còn với nhà cầm quyền, quyền lực trở thành mục đích.
Lưu ý rằng, sự ban trao lãnh đạo này chỉ có thể được thực hiện thông qua bầu cử dân chủ và minh bạch. Điều đó có nghĩa, bầu cử để lựa chọn nhà lãnh đạo là quan trọng, nhưng cách thức bầu cử còn quan trọng hơn. Chỉ thông qua bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo mới được ban trao quyền lực. Còn bất kỳ hình thức ban trao nào khác, dù nhân danh bất cứ điều gì hoặc bất cứ giá trị nào, như dòng dõi của các hoàng gia, hay đức tin của các tôn giáo, hay đề cử riêng của các đảng phái, hay bất cứ một nhân danh nào khác ngoài lá phiếu của người dân, thì đó không phải là một sự ban trao đích thực, mà thực chất là một sự sắp xếp. Lãnh đạo có được thông qua sắp xếp, dù theo chủ ý nhất thời của một thế lực nào đó, hoặc là sự mở rộng tự nhiên của truyền thống, thì cùng lắm cũng chỉ có thể là nhà cầm quyền. Còn nếu không thì sẽ rơi vào trạng thái bù nhìn cho các thế lực hậu trường giật dây.
Đó là lý do vì sao ở các quốc gia quân chủ lập hiến, khi ngôi vua được kế thừa theo kiểu cha truyền con nối, thì ngôi vua đó chỉ có giá trị biểu trưng về mặt văn hóa và truyền thống, đóng vai trò như một kết nối trong khối đoàn kết của toàn dân, còn nhà lãnh đạo thực sự đang dẫn dắt quốc gia đó vẫn phải được bầu theo nhiệm kỳ để thông qua đó, nhà lãnh đạo được ban trao quyền lực.
Bản chất công việc lãnh đạo
Điểm khác biệt thứ hai là khác biệt trong công việc thực sự của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Với nhà lãnh đạo, công việc của anh ta là thiết kế một tương lai chung cho tất cả mọi người, thuyết phục được mọi người tin tưởng vào tương lai đó, và cuối cùng là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó. Anh ta được ban trao quyền lực, và rộng hơn là ban trao sự lãnh đạo, để thực hiện công việc thiết kế tương lai và hiện thực hóa tương lai này. Thiết kế tương lai chung, trước hết dưới dạng các viễn cảnh được mô tả rõ ràng và thuyết phục, và sau đó là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó, là công việc chủ chốt của nhà lãnh đạo.
Nhưng với nhà cầm quyền, vì quyền lực và vị trí của họ không đến thông qua sự ban trao tự nguyện của người dân, công việc của nhà cầm quyền sẽ chỉ tập trung vào việc giữ cho bằng được quyền lực và vị trí của mình. Họ sẽ tìm mọi cách hợp thức hóa việc nắm giữ quyền lực và vị trí này, thông qua mọi phương tiện, không chỉ tuyên truyền mà còn cả đe dọa và đàn áp.
Ngay cả khi nhà cầm quyền chủ ý thiết kế và hiện thực hóa một tương lai nào đó, thì tương lai này vẫn sẽ bị giới hạn bởi điều kiện tiên quyết là không ảnh hưởng đến quyền lực và vị trí anh ta đang nắm giữ. Vì thế, tương lai đó không bao giờ là tương lai tốt nhất có thể có, và chỉ có thể đáp ứng được mối quan tâm của một nhóm người có lợi ích liên quan, chứ không phải của tất cả mọi người, trừ phi nhà cầm quyền tự chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo.
Miền thời gian lưu trú
Điểm khác biệt thứ ba là miền thời gian mà nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền đến sống và làm việc ở trong đó. Với nhà lãnh đạo, miền thời gian mà họ sống và làm việc là tương lai của chính dân tộc họ, và họ phải là hiện thân của chính tương lai đó. Vì thế, họ phải là người có tầm nhìn, phải có khả năng nhìn thấy tương lai, từ đó thiết kế ra một tương lai tốt hơn cho tất cả mọi người và tạo động lực để tất cả mọi người cùng hiện thực hóa tương lai đó. Nhà lãnh đạo tìm thấy bản thân mình và tính chính danh trong công việc của mình ở trong tương lai. Nhưng tương lai bao giờ cũng bất định, vì lẽ đó, nhà lãnh đạo đòi hỏi không chỉ giỏi về chuyên môn, mà quan trọng trước hết là bản lĩnh dám đối mặt với sự thay đổi, dám ra những quyết sách lớn và dám chịu trách nhiệm với những quyết sách lớn đó. Nhưng các nội dung này lại phải đặt trong bối cảnh của sự ban trao quyền lãnh đạo từ phía người dân, nên nhà lãnh đạo trước hết phải có đạo đức để tạo ra sự tin tưởng, và khả năng tập hợp người tài để sau khi đã thiết kế ra một tương lai chung, thì còn phải hiện thực hóa tương lai đó.
Còn nhà cầm quyền thì ngược lại, họ sẽ thường trú ngụ trong quá khứ, vì chỉ trong quá khứ, nơi các sự kiện đã xảy ra, họ mới tìm ra được các lý do để biện minh cho sự tồn tại của mình ở trong hiện tại, theo nghĩa hiện tại là sự nối dài của quá khứ. Còn trong tương lai, các sự kiện chưa xảy ra, nên dù có muốn, họ cũng không thể sử dụng. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không cần bản lĩnh đương đầu với một tương lai bất định, mà chỉ cần nhiều mưu mô để bày binh bố trận, sắp xếp quá khứ và hiện tại sao cho có lợi nhất cho mình. Nhà cầm quyền cũng sẽ không cần người tài để hiện thực hóa một tương lai đã được thiết kế, mà cần trước hết các bè phái hoặc nhóm lợi ích thân tín để bảo vệ lẫn nhau và duy trì quyền lực cũng như vị trí hiện thời.
Trong nhiều trường hợp, nếu nhà cầm quyền cũng quan tâm đến tương lai và thiết kế ra một tương lai mới, thì phải xét xem tương lai đó đáp ứng được lợi ích chính của nhóm đối tượng nào. Nếu tương lai đó chỉ phục vụ cho lợi ích của một nhóm, nhưng nhân danh cả dân tộc, thì đó là một thủ thuật của nhà cầm quyền, còn nếu tương lai đó đáp ứng lợi ích chung của toàn dân, thì trong trường hợp đó, nhà cầm quyền đã tự chuyển hóa thành nhà lãnh đạo.
Như vậy có thể thấy, nhà lãnh đạo là người sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến tương lai, còn nhà cầm quyền sẽ sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến quá khứ. Vậy nên, khi nghe các ứng viên thuyết trình, nếu họ nói về tương lai và về chương trình hành động để hiện thực hóa tương lai đó, và thuyết phục người dân tin tưởng vào tương lai đó và đồng lòng hiện thực hóa nó, ta biết đó là nhà lãnh đạo. Còn nếu ứng viên nói về quá khứ, và dùng quá khứ như một sự đảm bảo cho tính chính đáng của mình, thì ta biết đó là nhà cầm quyền.
Một cách logic, chỉ người sống trong tương lai mới có thể đưa toàn dân đi đến tương lai. Sự phát triển đột phá sẽ chỉ xảy đến trong trường hợp này. Còn người sống trong quá khứ, sẽ muốn toàn dân trú ngụ ở trong quá khứ, đặc biệt là quá khứ có chút hào quang. Tuy nhiên, thời gian không ngừng trôi, tương lai không thể tránh, nên tương lai trong trường hợp của nhà cầm quyền sẽ là chỉ đơn thuần là sự mở rộng của quá khứ. Nó chỉ đơn thuần là sự tịnh tiến trong thời gian của quá khứ. Mọi sự đều có thể đoán biết trước mà không có sự phát triển đột phá nào có thể đến. Đó chính là lý do vì sao các thể chế phong kiến có thể kéo dài hàng nghìn năm mà sự phát triển cứ như giậm chân tại chỗ. Vì họ chỉ sống trong quá khứ, luôn lấy quá khứ làm chuẩn mực, nên không vượt qua được quá khứ của mình. Mà đã không vượt qua được quá khứ của mình thì thời gian trôi họ cũng sẽ chỉ giậm chân tại chỗ mà thôi.
Nếu giậm chân tại chỗ có thể là mục đích của nhà cầm quyền, thì đó là điều không nhà lãnh đạo nào mong muốn. Vì khi để dân tộc giậm châm tại chỗ, trong khi các dân tộc khác vẫn không ngừng mải miết tiến lên, nhà lãnh đạo đã không hoàn thành sứ mệnh của mình, vì thế sự lãnh đạo mà họ đã được ban trao sẽ bị nhân dân lấy lại. Còn nhà cầm quyền thường tìm cách kiểm soát xã hội để ngăn chặn nguy cơ này, nên họ có thể hài lòng với trạng thái giậm chân tại chỗ này, miễn sao quyền lực và vị trí của mình được đảm bảo.
Hệ thống chính trị hướng đến
Điểm khác biệt thứ tư là khác biệt ở hệ thống chính trị nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền xây dựng lên.
Để thực hiện được công việc lãnh đạo của mình, một trong những nền tảng bắt buộc nhà lãnh đạo phải có, đó là sự chính trực vẹn toàn trong công việc và lời nói của mình.
Lý tưởng của nhà lãnh đạo, ước mơ hay khát vọng của họ, không ai có thể truy nhập trực tiếp được. Nhưng người dân sẽ biết được gián tiếp những điều đó thông qua lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo. Và quan trọng hơn, người dân có thể giám sát được những điều đó, để từ đó tin tưởng và ban trao sự lãnh đạo. Chỉ khi được ban trao sự lãnh đạo, trong tin tưởng và tự nguyện, thì nhà lãnh đạo mới có thể hành xử công việc lãnh đạo của mình. Và cũng chỉ khi đó, các dự án lãnh đạo mới có thể thành việc.
Sự chính trực vẹn toàn này sẽ không chỉ dừng ở trong lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo, mà phải được mở rộng ra cả hệ thống mà người đó thiết kế và vận hành, và thể hiện ra thành sự minh bạch. Một hệ thống chính trực là một hệ thống minh bạch. Chính vì vậy, nhà lãnh đạo bao giờ cũng hướng đến việc xây dựng một hệ thống minh bạch, còn nhà cầm quyền thì không. Vì với nhà cầm quyền, quyền lực đến được không qua sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không quan tâm đến sự tin tưởng của người dân, mà tập trung vào tuân thủ và đàn áp.
Để công việc lãnh đạo được thành công, nhà lãnh đạo bắt buộc phải thuyết phục được toàn dân tham gia, và huy động được mọi nguồn lực của người dân, để hiện thực hóa các dự án lãnh đạo của mình, hay rộng hơn là toàn bộ tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra. Để làm được điều này, yêu cầu tiên quyết là toàn dân phải có cơ hội được tham gia ngay từ những khâu đầu tiên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện của mình.
Muốn vậy, nhà lãnh đạo phải có thêm một nền tảng cốt yếu khác, là bao dung hội hợp. Chỉ khi có được sự bao dung hội hợp thì nhà lãnh đạo mới có thể thu hút được đủ người tài, và có được đủ sự ủng hộ của toàn dân để hiện thực hóa các chương trình lãnh đạo của mình.
Với hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam, khi chiến tranh xảy ra liên miên, chia cắt lòng người còn nặng nề, thì bao dung hội hợp lại càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
Sự bao dung hội hợp này, cũng tương tự như chính trực vẹn toàn, phải được mở rộng ra cả hệ thống chính trị mà nhà lãnh đạo xây dựng lên.
Vậy đâu là một hệ thống có khả năng bao dung hội hợp với mọi người dân? Rõ ràng, đó chỉ có thể là một hệ thống dân chủ. Vì hệ thống dân chủ cho phép mọi người dân đều có cơ hội được tham gia và đóng góp, được bày tỏ chính kiến của mình trong việc phát triển đất nước. Còn một hệ thống độc tài sẽ không có khả năng làm được việc này.
Và trở lại cách thức đạt được quyền lực rằng, nhà lãnh đạo sẽ đạt được quyền lực thông qua sự ban trao, mà cụ thể là một cuộc bầu cử dân chủ và minh bạch, còn nhà cầm quyền sẽ đạt được quyền lực thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, sẽ thấy rằng nhà lãnh đạo sẽ hướng đến việc xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ, không chỉ vì một hệ thống như vậy sẽ mang lại tính chính danh cho quyền lực và vị trí mà họ đang nắm giữ, mà nó còn là một công cụ đắc lực để họ huy động mọi người lực trong việc hiện thực hóa các chương trình lãnh đọa của mình. Còn nhà cầm quyền sẽ lảng tránh việc này, vì nó đe dọa trực tiếp đến quyền lực và vị trí mà họ đang có được thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt.
Vậy nên, nhìn vào hệ thống chính trị đang được xây dựng, có thể biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Sứ mệnh cá nhân
Điểm khác biệt thứ năm là sứ mệnh cá nhân mà nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền tự đặt ra cho mình.
Nhà lãnh đạo, xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực và bản chất công việc của mình, thường tự đặt ra một sứ mệnh cá nhân lớn lơn mối quan tâm của bản thân, gia đình hoặc phe nhóm mình, tức gắn liền sứ mệnh cá nhân của mình với tương lai của cộng đồng mình dẫn dắt. Vì sao vậy? Vì chỉ thông qua cách đó, nhà lãnh đạo mới có được sự tin tưởng và ban trao sứ mệnh lạo của người dân. Và cũng chỉ bằng cách đó, nhà lãnh đạo mới có thể thuyết phục người dân tin vào tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra, và cùng hợp tác với nhà lãnh đạo để hiện thực hóa tương lai đó. Nếu sứ mệnh của nhà lãnh đạo chỉ đơn thuần là để vinh thân phì gia, hoặc chỉ nhằm mang lại lợi ích cho phe nhóm mình, thì không có cách nào thuyết phục được người dân tin tưởng để ban trao sự lãnh đạo. Đó là lý do vì sao trong các cuộc bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo tương lai luôn phải truyền thông và trình bày về chương trình hành động của mình, để thông qua đó người dân thấy và đánh giá được tương lai mà nhà lãnh đạo dự kiến sẽ tạo ra có đáng thuyết phục, sứ mệnh của nhà lãnh đạo có gắn với mệnh vận mệnh của dân tộc hay không. Chính vì lẽ đó, một nhà lãnh đạo đích thực luôn mang trong mình một sứ mệnh cá nhân lớn lao, và luốn hướng đến việc trở thành và hành động bởi những điều lớn hơn bản thân, gia đình hay phe nhóm của mình.
Nhà cầm quyền thì ngược lại. Do cách thức đạt được quyền lực thông qua kế truyền, sắp xếp hoặc chiếm đoạt, và bản chất của công việc cầm quyền là tìm mọi cách để hợp thức hóa và duy trì quyền lực đã có, sứ mệnh của nhà cầm quyền thường chỉ giới hạn trong việc duy trì và trục lợi từ quyền lực đang có, cho cá nhân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Nhà cầm quyền không quan tâm đến việc mình có được người dân tin tưởng ban trao cho sự lãnh đạo hay không, nên không có động lực đặt ra những sứ mệnh cá nhân lớn hơn bản thân mình, và xông pha gánh vác những công việc khó khăn liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc. Trong hầu hết các trường hợp, nhà cầm quyền sẵn sàng hy sinh lợi ích của dân tộc để đánh đổi lấy lợi ích cá nhân. Lịch sử khắp nơi đã cho thấy, nhiều nhà cầm quyền sẵn sàng đánh đổi chủ quyền hoặc đẩy dân tộc đến bước tồn vong chỉ để duy trì sự cầm quyền hoặc bảo vệ lợi ích của cá nhân mình. Thậm chí, họ sẵn sàng mua bán đổi trác lợi ích của dân tộc chỉ để thỏa mãn hưởng thụ cá nhân, nhiều khi chỉ tính bằng một vài cuộc ăn chơi trác táng. Đó là lý do vì sao ở những nước dân chủ, đạo đức cá nhân hay cách thức sử dụng tài sản công lại là vấn đề quan trọng và nhạy cảm với nhà lãnh đạo. Nhiều người đã phải từ chức vì những vụ việc cá nhân cỏn con như vậy. Nhưng dưới con mắt của người dân thì vấn đề không hề cỏn con chút nào, bởi qua đó, người dân sẽ nhận ra sứ mệnh trong công việc mà anh đang thực thi, và nhận diện ra anh là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền. Nếu đó là nhà cầm quyền, người dân sẽ thu hồi lại sự lãnh đạo mà họ đã ban trao, trước hết thông qua công luận, sau là qua các thủ tục pháp lý nếu cần, vì thế nhà lãnh đạo không còn cách nào khác là phải từ chức.
Tâm thế hành xử
Điểm khác biệt thứ sáu là khác biệt trong tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực, và bản chất của công việc lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau, nên tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền cũng khác nhau. Nếu như nhà lãnh đạo dám nhìn thẳng vào hiện tại, đối mặt với hiện tại theo cách nó đúng là như vậy, để từ đó tìm ra sự thật và các cơ hội, các điều kiện tốt nhất để hiện thực hóa tương lai mà họ thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ thường nhìn hiện tại qua lăng kính bảo vệ quyền lực, vì thế thường thấy hiện tại như một sự đe dọa, do đó thường chỉ nhìn ra các thế lực thù địch, nguy cơ và sự bất an. Vì lẽ đó, nếu nhà lãnh đạo luôn là người có tâm thế chủ động khi đối mặt với hiện tại, theo nghĩa luôn chủ động tìm ra sự thật và kết nối các sự thật, tổ chức các nguồn lực hiện có của hiện tại để hiện thực hóa tương lai mà họ đã thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ luôn ở trong tâm thế bị động trước hiện tại, khi luôn coi hiện tại là một mối đe dọa cần xử lý, thậm chí ngay cả khi anh ta chủ động xử lý hiện tại như xử lý một mối đe dọa thì trên thực tế đó vẫn là một sự bị động vì hiện tại đang diễn biến theo hướng buộc anh ta phải làm như vậy.
Chính vì thế, nhìn phong thái hành xử của những người đứng đầu của tổ chức, và rộng hơn là của đất nước, trước những diễn biến của hiện tại, chúng ta sẽ biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Hiển nhiên, một người chủ động là một người có khả năng tạo ra sự thay đổi và làm chủ sự thay đổi đó. Đó là một người có quyền lực thực sự. Còn một người bị động thì muốn hay không anh ta vẫn chỉ là nạn nhân của sự thay đổi. Đó là một người không có quyền lực thực sự, dù trên thực tế anh ta có đủ quyền uy và chức vị để hành xử như một người có quyền lực. Điều này cũng dễ hiểu khi ta trở lại cách thức đạt được quyền lực của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền, và thấy rằng, quyền lực thực sự chỉ có được khi nó được ban trao trong sự tin tưởng và tự nguyện, còn quyền uy có thể đạt được thông qua sắp xếp hoặc cưỡng đoạt.
Nói cách khác, nhà lãnh đạo có được quyền lực thông qua sự ban trao, trong tự do và tin tưởng. Còn nhà cầm quyền có được quyền uy thông qua sự sắp xếp và chiếm đoạt, trong mưu mô và đe dọa.
Chuyển hóa cầm quyền – lãnh đạo
Cần lưu ý là có tồn tại sự chuyển hóa qua lại giữa lãnh đạo và cầm quyền. Nếu như trong quá khứ, một người hoặc nhóm người đã từng là nhà lãnh đạo vì họ được người dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo, do họ đã tạo ra được một tương lai chung đáp ứng được mối quan tâm của tất cả mọi người, họ thuyết phục mọi người tin theo và bản thân họ là người nỗ lực hiện thực hóa tương lai đó, mà thường gặp nhất là lãnh đạo của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thì rất có thể sau đó khi sứ mệnh ban đầu đã hoàn tất, họ sẽ không còn là nhà lãnh đạo nữa, mà đã chuyển hóa thành nhà cầm quyền khi chỉ tập trung vào việc duy trì quyền lực của mình, và dùng hào quang của quá khứ để hợp thức hóa sự cầm quyền đó, trong khi tương lai mà họ hướng đến chỉ nhằm đáp ứng mối quan tâm của chính họ và một nhóm người có lợi ích liên quan chứ không phải là một tương lai chung đáp ứng mối quan tâm của tất cả mọi người. Trong trường hợp ấy, người đó hoặc nhóm người đó đích thị là một nhà cầm quyền, chứ không phải nhà lãnh đạo.
Ngược lại, một nhà cầm quyền khi chuyển đổi công việc của mình từ việc tìm mọi cách bảo vệ quyền lực và lợi ích của mình hiện thời, sang thiết kế một tương lai chung cho toàn dân tộc, thuyết phục toàn dân tin vào tương lai đó và nỗ lực hiện thực hóa nó thì nhà cầm quyền khi đó đã chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo. Trong nhiều trường hợp, tuy sự chuyển hóa này không đủ rõ ràng về hình thức, và nhà cầm quyền tuy vẫn mang danh là nhà cầm quyền, thậm chí mang danh độc tài, thì về nội dung, người đó đã tự chuyển hóa để trở thành nhà lãnh đạo, vì công việc người đó thực hiện và sứ mệnh mà người đó gánh vác là công việc và sứ mệnh của nhà lãnh đạo, cho dù cách thức đến với công việc và sứ mệnh đó không được chính danh thông qua sự ban trao của người dân. Tuy nhiên, lịch sử sẽ công bằng nhìn ra người đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền, và sẽ ghi nhận đầy đủ những gì mà người đó đóng góp.
Với Việt Nam, câu chuyện về lãnh đạo và cầm quyền là câu chuyện thời sự. Chúng ta đã từng có nhà lãnh đạo, nhưng chưa bao giờ chúng ta thiếu các nhà lãnh đạo như hiện giờ. Nhìn đâu cũng chỉ thấy nhà cầm quyền, ở mọi cấp độ. Câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có tiếp tục cần các nhà cầm quyền? Hiển nhiên là không, chúng ta cần các nhà lãnh đạo chứ không cần các nhà cầm quyền. Nhưng bằng cách nào để có được các nhà lãnh đạo, và làm sao để tạo ra một môi trường để cho nhà lãnh đạo xuất hiện và thực hiện công việc của mình?

Câu trả lời xin bỏ ngỏ cho những ai đang suy tư và hành động để thúc đẩy sự phát triển đất nước, và đặc biệt cho những người trong cuộc chuyển giao quyền lực đang diễn ra những ngày đầu năm 2016 này.

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

(GDVN) - Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới

Ngày 18/1, Phó Thủ tướng Nga Arkady Dvorkovich cho biết, Nga hy vọng Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) do Trung Quốc nắm cổ phần chi phối, sẽ thông qua những khoản vay đầu tiên trong vòng sáu tháng tới, theo Reuters.
Không chỉ Nga, mà hàng loạt các quốc gia khác cũng đang chờ AIIB cho vay để có thể có nguồn tài chính phục vụ cho phát triển đất nước trong giai đoạn kinh tế thế giới đang chao đảo do tác động của giá dầu thô giảm mạnh như hiện nay.
Điều này cho thấy AIIB đang được xem như một định chế tài chính cung cấp vốn cho nhiều nền kinh tế, còn Bắc Kinh đang được xem là “bà đỡ” cho nhiều chính phủ, dù AIIB “sinh sau đẻ muộn” so với những định chế tài chính khác trên thế giới như WB, IMF, ADB...
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ảnh: gtreview.com
Điều gì làm cho AIIB trở nên quan trọng như vậy, ngay cả khi nó chưa thực sự vận hành để cung cấp các dịch vụ cho thị trường tài chính?

AIIB - một “siêu ngân hàng thế giới”
Dư luận thế giới cho rằng việc AIIB ra đời là do Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn “dằn mặt” Tổng thống Mỹ Barak Obama khi bị gạt ra ngoài TPP. Song theo người viết thì việc Trung Quốc cho thành lập AIIB còn do chính phủ nước này thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế và do chính sự thiếu toàn diện của TPP.
Theo tài liệu giới thiệu thì Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) là một ngân hàng phát triển đa phương (MDB) được hình thành nhằm phục vụ cho thị trường vốn trong thế kỷ 21. AIIB được tổ chức và quản trị dựa trên nền tri thức hiện đại, tập trung vào sự phát triển cơ sở hạ tầng và các ngành sản xuất khác ở châu Á. 
Các dự án mà AIIB ưu tiên cung cấp vốn sẽ nằm trong các lĩnh vực điện và năng lượng, giao thông vận tải và viễn thông, cơ sở hạ tầng nông thôn và phát triển nông nghiệp, cung cấp nước và vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường, hậu cần và phát triển đô thị.
AIIB sẽ bổ sung và phối hợp với các MDB hiện có để cùng giải quyết các nhu cầu vốn về cơ sở hạ tầng tại những quốc gia khó khăn ở châu Á. Sự cởi mở và tính toàn diện của Ngân hàng đã phản ánh tính chất đa phương của nó. 

Thế lực thống trị mới đang bắt đầu

(GDVN) - Quan hệ thương mại với Trung Quốc, dù xuất siêu hay nhập siêu cũng đều chịu thiệt đơn thiệt kép bởi chính sách tỷ giá phi thị trường.
AIIB chào đón tất cả các nước trong khu vực Châu Á và ngoài khu vực, các nước phát triển và các đang nước phát triển – nghĩa là AIIB sẽ đón nhận tất cả những cổ đông có mục đích đóng góp vào sự phát triển cơ sở hạ tầng và kết nối các khu vực ở châu Á.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã công bố sáng kiến ​​thành lập AIIB trong những chuyến thăm đến các nước Đông Nam Á vào tháng 10/2013. Theo tính toán của của Trung Quốc thì nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng tại Châu Á cần tới khoảng 8.000 tỷ USD, vì vậy Bắc Kinh đã xác định quy mô của AIIB với số vốn đóng góp của các cổ động lên đến 1.000 tỷ USD, theo aiib.org. 
Đến nay, đã có 56 quốc gia trên thế giới tham gia làm thành viên sáng lập AIIB cùng với Trung Quốc và cam kết số vốn góp lên đến 981,514tỷ USD, gần bằng con số như Bắc Kinh dự tính ban đầu. Điều này làm cho AIIB trở thành định chế tài chính lớn nhất thế giới hiện nay.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thành phần trong danh sách các nền kinh tế tham gia AIIB mới thấy nó là một “siêu ngân hàng thế giới” chứ không chỉ đơn giản là định chế tài chính có quy mô lớn nhất mà thôi. Và nó được xem là công cụ mà Bắc Kinh sẽ sử dụng cho cả mục đích kinh tế và mục đích chính trị của mình trong tương lai.
Ngày 18/1,  Ban điều hành của AIIB họp lần đầu tiên tại Bắc Kinh, Trung quốc. Ảnh : aiib.org.
Những nước thuộc G7 tham gia AIIB có Đức, Anh, Pháp, Italia, Canada. G20 có thêm Nga, Úc, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Ả Rập Xê Út, Nam Phi, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. EU có thêm: Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Luxembourg, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bỉ, Séc, Hungary.  
Những nước OPEC tham gia AIIB có thêm Iran, Kuwait, Qatar, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất UAE. ASEAN có thêm Brunei, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Như vậy, có 5/7 nước G7, 15/20 nước thuộc G20, 16/28 nước thuộc EU, 5/13 nước thuộc OPEC và có 9/10 nước thuộc ASEAN, là thành viên của AIIB. Nghĩa là hầu hết những cường quốc kinh tế, những quốc gia phát triển trên thế giới quy về dưới trướng Bắc Kinh. Vì vậy, giới quan sát cho rằng AIIB là một “siêu ngân hàng thế giới của Trung Quốc”.
Và ngày 16/1 vừa qua AIIB đã chính thức đi vào hoạt động với vốn đóng góp đợt đầu của các thành viên là 10% của vốn cam kết, tức là khoảng gần 100 tỷ USD. Với hơn 29% vốn góp, Trung Quốc đóng vai trò chi phối hoạt động của AIIB. Trụ sở của AIIB đặt tại Bắc Kinh và Chủ tịch đầu tiên của Ngân hàng này là người Trung Quốc – ông Kim Lập Quần, theo aiib.org. 
Qua việc thành lập AIIB người ta có thể nhận ra đây là một trong những bước đi của Trung Quốc trong việc chi phối, tiến tới thống trị nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21 – điều mà Mỹ quyết tâm ngăn chặn. Liệu Trung Quốc có thể làm được điều ấy và sẽ thực hiện theo cách nào?

AIIB – công cụ Bắc Kinh chặn đầu chặn đuôi Washington

Nhạt nhòa và dang dở

(GDVN) - Obama không ngờ Tập Cận Bình cao cơ hơn đã lập hẳn một “siêu ngân hàng thế giới” của riêng mình, với quy mô lớn hơn tất cả các định chế tài chính thế giới.
Do Tổng thống Barak Obama chuyển hướng trọng tâm trong chiến lược quan hệ quốc tế sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nên đã khởi động Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tuy nhiên, Mỹ đã gạt Trung Quốc ra ngoài TPP để tránh hậu họa là Bắc Kinh trở thành bá chủ thế giới trong thế kỷ 21, theo The NewYork Times ngày 4/12/2015.
Có thể thấy rằng, TPP là một hiệp định thương mại tự do giữa các đối tác hai bên bờ Thái Bình Dương. Đấy chỉ là hiệp định thuần túy về thương mại. Mục đích của hiệp định này nhằm hướng tới việc tự do và bình đẳng trong quan hệ thương mại giữa các thành viên tham gia hiệp định. 
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có 12 nước tham gia gồm Mỹ, Nhật, Canada, Úc, New Zealand, Singapore, Brunei, Peru, Chile, Mexico, Malaysia và Việt Nam, theo ustr.gov/tpp  
Có thể hiểu một cách đơn giản là, việc các quốc gia được hưởng lợi là nhờ giảm thủ tục và áp thuế suất ưu đãi cho những hàng hóa trao đổi giữa các thành viên, trong đó có nhiều mặt hàng thuế suất bằng 0. Nói một cách nôm na là bán hàng giá rẻ và mua hàng giá cũng rẻ.
Như vậy, người dân và doanh nghiệp của các nước tham gia TPP là những đối tượng chịu sự ảnh hưởng trước tiên và trực tiếp nhất bởi hiệp định này.
Khi TPP vận hành thì có thể mang đến cả lợi ích và thiệt hại cho các thành viên. Việc lợi nhiều hay thiệt nhiều là do sức mạnh của nền kinh tế cũng như những chủng loại hàng hóa mà quốc gia có thể xuất khẩu được và những mặt hàng mà người dân và doanh nghiệp có thể tiêu thụ được. Nghĩa là lợi và hại là rất tương đối và tùy theo lĩnh vực cụ thể.
Tổng thống Mỹ Barak Obama đang ca ngợi TPP trên diễn đàn APEC tại Philippines tháng 11/2015. Ảnh: AP.
Tuy nhiên, muốn được lợi và tránh thua thiệt thì điều kiện cần và đủ là phải có hàng để bán và có tiền để mua hàng sử dụng. Nghĩa là phải có tiền, có hàng hóa thì mới có thể thấy được lợi ích của TPP.
Song TPP chỉ thuần túy là hoạt động thương mại, chứ không liên quan đến dịch vụ tài chính – một yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo cho hoạt động thương mại có thể diễn ra.
Một ví dụ đơn giản là Việt Nam tham gia TPP nên mặt hàng may mặc của Việt Nam được hưởng lợi khi xuất khẩu vào thị trường Úc với thuế nhập khẩu của Úc là 0% chẳng hạn, nhưng nếu không đủ vốn để phát triển sản xuất thì lợi thế đó chẳng có ý nghĩa gì. 
Ngược lại, Việt Nam giảm thuế nhập khẩu hàng nông sản từ các nước TPP bằng 0% chẳng hạn và New Zealand sẽ xuất khẩu gạo vào Việt Nam vì giá của họ rẻ hơn, gạo ngon hơn.
Nông dân và doanh nghiệp kinh doanh gạo Việt Nam sẽ thua thiệt nều không có vốn cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng để không mất thị trường nội địa – nghĩa là không để người Việt Nam ăn gạo New Zealand.

Công thành thân thoái thì hơn

(GDVN) - Một lãnh đạo đã rời xa chính trường gần 4 nhiệm kỳ mà vẫn để lại sự nuối tiếc của người dân thì có hạnh phúc nào bằng. Tiếc là ông Putin không làm như vậy.
Điều đó cho thấy. những bên tham gia vào TPP chỉ tạo ra sự thuận lợi cho đối tác và cũng khai thác tối đa sự thuận lợi mà đối tác tạo ra cho mình. Ở đây không có sự tương trợ, hỗ trợ giữa các đối tác, thậm chí còn ngược lại để có thể được lợi nhiều hơn – nghĩa là phải cạnh tranh sòng phẳng với phương châm: mạnh thì thắng, yếu thì chết (chứ không chỉ là thua). 
Vì vậy, sẽ có đối tác thua thiệt rất nhiều khi tham gia TPP nếu như tài chính công và tài chính doanh nghiệp yếu, sức mạnh kinh tế nội địa kém hơn so với các đối tác khác.
Đây chính là sự thiếu toàn diện của TPP mà Trung Quốc nhắm tới khi xúc tiến việc thành lập AIIB. Có thể mục tiêu của AIIB là cho giúp cho Châu Á thoát nghèo, nhưng tác động vào TPP mới là mục đích của Bắc Kinh, theo The New York Times ngày 4/12/2015.
Trong số 12  nước tham gia TPP thì có tới 7 quốc gia là cổ đông và cổ đông sáng lập của AIIB, điều đó cho thấy khi TPP vận hành thì AIIB có sự chi phối tới nhiều chủ thể của nó. Nghĩa là tiền của AIIB sẽ làm nên hàng hóa cho TPP  - dịch vụ tài chính của AIIB có sự chi phối hoạt động thương mại của TPP.    
Như vậy dù không được tham gia vào TPP, thậm chí bây giờ có thể nói là không cần tham gia, nhưng Trung Quốc đã có ảnh hưởng trực tiếp tới TPP và được hưởng lợi khi TPP vận hành.
Do vậy, trước đây Trung Quốc có thể có ý định ngăn cho TPP chậm được các nước thông qua, thì nay Trung Quốc có thể sẽ thúc đẩy TPP nhanh chóng khởi động và vận hành.
Song Trung Quốc sẽ không chỉ “ngồi mát ăn bát vàng” mà Bắc Kinh sẽ sử dụng AIIB như một công cụ tác động mang tính chi phối tới TPP, mà mục đích là chặn hướng đi của Washington tới Châu Á – Thái Bình Dương hay nói cách khác là buộc người Mỹ đi theo hướng của Bắc Kinh.
Chủ tịch Trung Quốc thăm Anh quốc mở ra “kỷ nguyên vàng” giữa hai nước, một sự thay thế thế cho quan hệ Mỹ - Anh. Ảnh: BBC.
Bên cạnh đó, khi Tổng thống Obama khởi động TPP thì cũng đồng thời xem nhẹ quan hệ với những đối tác truyền thống ở các khu vực khác, trong đó có EU. Thế là Bắc Kinh thấy đây là cơ hội trời cho nên đã nhanh chân thay thế Mỹ, trở thành đối tác quan trọng của những “người bạn cũ” của Mỹ, theo BBC ngày 20/10/2015.
Với thành phần cổ đông và cổ đông sáng lập của AIIB thì có thể thấy rằng, những đối tác mà Mỹ “buông” đã nằm trong sự chi phối của Bắc Kinh thông qua lợi ích từ AIIB và cơ chế hoạt động của nó.
Có thể thấy rằng, nếu TPP không mang lại hiệu quả như Mỹ mong muốn thì Washington cũng không còn cửa quay lại với những đối tác truyền thống vì Bắc Kinh đã thay thế họ mất rồi.
Lúc này thúc đẩy cho TPP khởi động là nhiệm vụ tối quan trọng của chính quyền Tổng thống Obama, nhưng khi nó vận hành thì người được hưởng lợi đầu tiên nhất không phải là Washington mà lại là Bắc Kinh.
Và Trung Quốc sẽ tác động vào TPP theo hướng chi phối nó ngày càng nhiều trong tương lai, mà mục đích hướng tới là khống chế Mỹ.  
Như vậy, Bắc Kinh đã chặn cả đường tiến lẫn đường lùi của Washington trong một thế trận được họ bày ra với việc sắp đặt lại những quân cờ mà có thể Mỹ đã vội vàng cho là “vô dụng”, thông qua dịnh chế AIIB.
Tuy nhiên, cùng với kênh thị trường hàng giá rẻ và tỷ giá tiền tệ có điều tiết, thì dịch vụ tài chính của AIIB cũng chỉ là công cụ phục vụ cho những kế hoạch mang tính sách lược của Trung Quốc mà thôi.
Việc Bắc Kinh nuôi mộng bá chủ thế giới được Tập Cận Bình xây dựng bằng một chiến lược mang tên “Con đường tơ lụa mới” mà khi phân tích về nó, người ta sẽ hiểu được lý do tại sao Bắc Kinh quyết tâm gây hấn tại Biển Đông cũng như gây ảnh hưởng ngày càng lớn tại Trung Đông và thực hiện “đồng hóa” tại Châu Phi.
Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.